Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011

Kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi và hành vi kinh tế vĩ mô


Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2001
GEORGE A. AKERLOF*
Khoa kinh tế, Đại học Berkeley, California, CA 94720-3880, Hoa Kỳ.
Phiên Dịch: Hồ Phương Trang
Hãy nghĩ tới tác phẩm "Ô tô và Xe tải và Nhữnng thứ có thể đi được"1. Hãy thử nghĩ xem cuốn sách đó sẽ trông như thế nào trong những thập kỷ tới vào cuối thế kỷ này nếu Richard Scarry vẫn còn trong tâm trí họ thì cũng chỉ để làm vui và trọc cười những đứa trẻ và cha mẹ của chúng. Mỗi một thập kỷ qua đi thì lại xuất hiện nhiều hơn những phương tiên giao thông chuyên biệt. Chúng ta khởi đầu bằng chiếc xe ô tô hiệu T-Ford. Hiện nay chúng ta có kiểu ô tô đời mới hơn bốn năm qua chúng ta đã tưởng tượng.
Điều này có gì liên quan tới kinh tế? Vào cuối những năm 60, có một thay đổi trong việc miêu tả công việc của các nhà lý luận kinh tế. Trước thời gian đó lý thuyết kinh tế vi mô chủ yếu liên quan tới phân tích đơn thuần mô hình cân bằng chung và cạnh tranh dựa trên sự tăng lợi nhuận tới tột cùng của các công ty cũng như tăng nhiều nhất lợi ích của khách hàng. Kinh tế vĩ mô vào thời đó, cái gọi là hợp đề tân cổ điển, gắn tiền lương cố định vào hệ thống cân bằng chung như thế.
"Tiền lương cố định" giải thích cho một sự khởi đầu của công việc đầy đủ và những dao động trong chu kỳ kinh doanh. Kể từ đó, cả kinh tế vi mô và vĩ mô đều phát triển một quyển sách mang tính chất Scarry về những mô hình được thiết kế để sát nhập vào lý thuyết kinh tế để tạo thành một tổng thể những hành vi thực tế. Ví dụ, "Thị trường cho 'quả chanh'" khảo sát thị trường với những thông tin không đối xứng hoạt động như thế nào. Người bán và người mua thường đưa ra những ý kiến khác nhau, không phải là những thông tin chính xác. Bài luận của tôi nghiên cứu bệnh lý mà có thể phát triển dưới những điều kiện thực tế này.
Đối với tôi, việc nghiên cứu thông tin không cân xứng là một bước đầu tiên biến ước mơ thành hiện thực. Ước mơ đó là một sự phát triển của kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi theo quan điểm chính gốc trong tác phẩm Lý thuyết tổng quát của Keynes. Kinh tế vĩ mô vì thế sẽ không còn phải núp dưới bóng của hợp đề tân cổ điển, cái mà đã gạt sang một bên tầm quan trọng và vai trò của những nhân tố tâm lý và xã hội trong tác phẩm Lý thuyết tổng quát như là xu hướng kinh nghiệm, sự công bằng, và địa vị xã hội. Mơ ước của tôi là củng cố và phát triển lý thuyết kinh tế vĩ mô bằng cách kết hợp chặt chẽ những kết luận đã được nghiên cứu với sự quan sát hành vi đó. Một nhóm các nhà khoa học đã tham gia vào để biến ước mơ này thành hiện thực. Kurt Vonnegut sẽ gọi nhóm này là kerass, có nghĩa là "một nhóm những người không hề biết nhau và tình cờ cùng nghiên cứu về một vài đề tài giống nhau được ủng hộ bởi một thế lực lớn hơn".2 Trong bài thuyết trình này, tôi sẽ giới thiệu một vài mô hình dựa trên hành vi được phát triển bởi nhóm kerass này để cung cấp cho quý vị những giải thích đáng tin cậy đối với những hiện tượng trong kinh tế vĩ mô, đây là trọng tâm nghiên cứu của kinh tế học trường phái Keynes.
Để mọi người hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề, tôi sẽ đưa quý vị quay ngược thời gian một chút để xem lại lịch sử của một vài tư tưởng vĩ mô. Vào cuối những năm 60, các nhà kinh tế học Tân cổ điển đã nhận ra những nhược điểm giống nhau trong những bước hình thành đầu tiên của kinh tế học vĩ mô, điều này là một động lực rất lớn đối với tôi. Họ không thích nó bởi nó thiếu tính chặt chẽ. Và họ sa thải nó. Họ sau đó tổ chức một buổi lửa trại kỷ niệm, với một bài báo tiêu đề "Phía sau kinh tế học vĩ mô thuộc trường phái Keynes"3 Một khái niệm mới cho kinh tế học vĩ mô được họ đưa ra trở thành chuẩn mực vào những năm 70.
Noi gương theo người tiền nhiệm hợp đề tân cổ điển của nó, Kinh tế học vĩ mô Tân cổ điển dựa trên mô hình cân bằng chung và cạnh tranh. Nhưng nó khác biệt ở chỗ tập trung hơn vào nhấn mạnh tất cả những quyết định - nhu cầu tiêu dùng và khả năng cung cấp lao động của từng hộ gia đình, sản lượng, việc làm và những quyết định về giá cá của các nhà sản xuất, tiền công thoả thuận giữa người làm công và công ty - tất cả các quyết định này đều phù hợp với hành vi mang tính cực đại. 4 Kinh tế học vĩ mô Tân cổ điển vì thế từ bỏ việc thừa nhận tiền lương cố định. Để giải thích cho sự thất nghiệp và những dao động của nền kinh tế, các nhà kinh tế học Tân cổ điển ban đầu dựa vào những thông tin không hoàn hảo và sau đó thì dựa vào sự đột biến của công nghệ.
Lý thuyết mới ít nhất đã tiến một bước vào một khía cạnh: những quyết định của giá cả và tiền công bây giờ dựa chủ yếu vào sự thiết lập nhỏ nhất. Nhưng những lý thuyết dựa trên hành vi này quá thô sơ đến nỗi mô hình phải đối mặt với một khó khăn vô cùng lớn khi giải thích ít nhất là sáu hiện tượng thuộc về kinh tế vĩ mô. Trong một vài trường hợp, sự mâu thuẫn theo logíc với những kết luận then chốt của mô hình tân cổ điển sẽ dẫn tới những phủ nhận hoàn toàn hiện tượng trong câu hỏi. Mặt khác, những lời giải thích chỉ đơn thuần là sự quanh co. Sáu hiện tượng đó là:
- Sự tồn tại của thất nghiệp không cố ý: Trong lý thuyết tân cổ điển, một công nhân bị thất nghiệp có thể dễ dàng nhận được một công việc bằng cách chấp nhận làm việc với một mức lương thấp hơn mức trung bình của thị trường một chút; bởi vậy sự thất nghiệp không cố ý là không thể tồn tại.
- Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới sản lượng và việc làm: Trong lý thuyết tân cổ điển, chính sách tiền tệ là tất cả trừ việc không có hiệu lực trong việc thay đổi sản lượng và việc làm. Khi những thay đổi trong cung tiền tệ hoàn toàn được dự đoán trước thì giá cả và tiền lương cũng thay đổi tỉ lệ thuận với nó; tiền lương thực tế và giá tương đối là cố định và điều này hoàn toàn không có ảnh hưởng tới nền kinh tế thực tế.
- Thất bại của việc giảm lạm phát để thúc đẩy nên kinh tế khi tỷ lệ thất nghiệp cao: Mô hình tân cổ điển đưa ra một đường cong gia tốc Phillips với một tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên duy nhất. Nếu tỉ lệ thất nghiệp rơi xuống dưới tỉ lệ tự nhiên này thì lạm phát sẽ tăng. Còn nếu tỉ lệ thất nghiệp ở phía trên tỉ lệ tự nhiên này thì lạm phát sẽ giảm liên tục.
- Sự phổ biến của tiết kiệm khi về hưu: Trong mô hình Kinh tế tân cổ điển, từng cá nhân có quyền quyết định họ tiêu dùng bao nhiêu và tiết kiệm bao nhiêu để làm tăng tới mức tối đa một hàm thoả dụng liên thời gian. Kết quả là tiền tiết kiệm được quyết định mang tính cá nhân hầu như là tối ưu nhất. Nhưng những cá nhân thông thường tỏ ra thất vọng với hành vi tiết kiệm của mình và những chương trình bảo hiểm xã hội vắng mặt, mọi người đều tin tưởng rằng hầu hết tất cả mọi người đều tiết kiệm dưới mức. Những chương trình "Tiết kiệm bắt buộc" vô cùng phổ biến.
- Tính bất ổn của giá cổ phiếu có liên quan tới nguồn gốc của chúng: Lý thuyết tân cổ điển thừa nhận rằng giá cổ phiếu phản ánh nguồn gốc của chúng, giá trị chiết khấu của thu nhập trong tương lai sẽ chảy vào.
- Tính cố chấp bướng bỉnh của một sinh viên không có tính xây dựng: Danh sách những câu hỏi kinh tế vĩ mô của tôi được giải thích bao gồm những lý do cho sự nghèo đói bởi vì tôi xem sự phân phối lợi tức như là một đề tài trong kinh tế học vĩ mô. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng nghèo đói là phản ánh của sự cung cấp vốn tài nguyên con người và tài nguyên khác ban đầu thấp. Lý thuyết này không thể giải thích được sự nghèo đói dai dẳng và cùng cực gắn liền với việc nghiện rượu và ma tuý, đẻ con hoang, những hộ gia đình chỉ có một người làm chủ, phụ thuộc chủ yếu vào trợ cấp xã hội và tội phạm.5
Dựa vào những gì tôi đang theo đuổi, tôi sẽ miêu tả cho mọi người những nhà kinh tế học vĩ mô dựa theo hành vi, kết hợp những kết luận theo chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong những quan sát tâm lý và xã hội, đã đưa ra những mô hình giải thích một cách thích đáng cho mỗi một hiện tượng kinh tế vĩ mô này như thế nào. Theo tính thần trong tác phẩm Lý thuyết chung của Keynes thì các nhà kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi đang xây dựng lại những cơ sở căn bản nhỏ nhất, những cái đã bị đào thải bởi kinh tế học tân cổ điển. Tôi sẽ bắt đầu bản báo cáo của tôi bằng cách miêu tả lại một trong những nỗ lực đầu tiên của tôi trong lĩnh vực này, những nỗ lực đã dẫn tới sự phát hiện ra vai trò của thông tin không cân đối trong thị trường.
Một câu hỏi thứ hai gắn liền với việc thành lập cơ sở nhỏ nhất liên quan tới những lý do cho sự dẫn đầu và chậm trễ trong những thay đổi của kinh tế vĩ mô, như là sự tiêu dùng lâu dài, nhu cầu tiền tệ và giá cả. Mô hình S-s với chi phí rất lớn để tạo ra những thay đổi có thể giải thích cho sự dẫn đầu và chậm trễ này (trừ phi sự thay đổi trong câu hỏi hoặc là luôn giảm hoặc luôn tăng). Nghiên cứu tiên phong về những ảnh hưởng của mức giá S-s được thực hiện đặc biệt bởi Iwai (1981) và Barro (1972).
Caballero (tham khảo năm 1993) đã so sánh sự dẫn đầu và chậm trễ trong những mô hình như thế cùng với tình thế không có chi phí cho chỉnh sửa. Caplin và Spulber (1987) và Caplin và Leahy (1991) cũng nhìn vào những gợi ý của chính sách S-s đối với mối quan hệ giữa những thay đổi trong giá lý tưởng và giá thực tế được tính vào. Tham khảo thêm Akerlof (1973, 1979) về bản phân tích những ảnh hưởng của ngưỡng mục tiêu kiểm tra thu nhập và lợi tức ngắn hạn linh hoạt trong cầu tiền.
THÔNG TIN KHÔNG ĐỐI XỨNG
Lần đầu tiên tôi nghiên cứu những vấn đề như là kết quả của thông tin không đối xứng trong một điều tra gần đây về nguyên nhân chủ yếu của những dao động trong sản lượng và việc làm - mức độ thay đổi lớn trong giá cả của những chiếc ô tô mới.6 Tôi cho rằng tính không dễ quy đổi thành tiền mặt, dựa trên thực tế là những người bán xe ô tô đã qua sử dụng biết nhiều hơn những người mua xe đã qua sử dụng, có thể giải thích cho tính không ổn định cao của việc mua ô tô.7 Trong khi cố gắng xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô như vậy, tôi đã bị đi trệch sang hướng khác. Tôi phát hiện ra rằng những vấn đề thông tin tồn tại trong thi trường xe ô tô đã qua sử dụng có khả năng xuất hiện ở một mức độ nào đó trong tất cả các thị trường khác. Trong một vài thị trường, thông tin không đối xứng tương đối dễ giải quyết hơn bằng giá lặp lại và danh tiếng.
Trong các thị trường khác, như thị trường bảo hiểm, thị trường tín dụng và thị trường lao động, thông tin không đối xứng giữa người bán và người mua không được giải quyết dễ dàng và dẫn tới sự đổ vỡ thị trường nghiêm trọng. Ví dụ, một người lớn tuổi thường khó khăn hơn khi nhận được một bảo hiểm sức khoẻ, những doanh nghiệp nhỏ thường có khả năng được định mức tín dụng, và những dân tộc người thiểu số thường phải chịu sự phân biệt trong thị trường lao động bởi vì tất cả mọi người được xếp cùng nhau vào thành những loại với những đặc điểm giống nhau có thể quan sát được. Sự thất bại của thị trường tín dụng là một trong những lý do chính cho sự kém phát triển.
Thậm chí nơi kỹ xảo như danh tiếng và giá cả lặp lại xuất hiện để vượt qua vấn đề thông tin không cân xứng, sự thành lập như thế trở thành một yếu tố quyết định của cấu trúc thị trường.
Để hiểu rõ hơn nguồn gốc của kinh tế học về thông tin không cân xứng trong thị trường, sẽ rất hữu ích khi suy ngẫm về cuộc cách mạng tri thức xảy ra vào thời điểm đó. Trước những năm 60, các nhà lý luận kinh tế hiếm khi xây dựng những mô hình kinh tế theo yêu cầu để giành được những tổ chức duy nhất hoặc những tính chất thị trường đặc biệt. Sự cạnh tranh độc quyền của Chamberlin và điều tương đương8 của Joan Robinson được giảng dạy trong chương trình cao học và thậm trí trong một vài khoá đại học, những mô hình "đặc biệt" như thế là một ngoại lệ hiếm có; chúng không được giới thiệu như là tầm nhìn trung tâm mà thay thế vào đó là những chuyến tham quan về miền quê, vì tính thích mạo hiểm hoặc cho những người có một ngày rảnh rỗi.9
Tuy nhiên, trong suốt đầu những năm 60, những mô hình "đặc biệt" này bắt đầu phát triển khi các nhà lý luận về sự tăng trưởng, nghiên cứu ra ngoài một chút những quy phạm kinh tế chuẩn về lý thuyết giá cả, bắt đầu xây dựng mô hình với những đặc điểm kỹ thuật đặc biệt: mô hình mattít-đất sét, vốn theo thời gian, và học bằng cách làm. Sự hợp nhất thành những mô hình công nghệ chuyên dụng như vậy không hề vi phạm quy phạm lý thuyết giá cả đã được thành lập, nhưng nó đã gieo hạt giống một cuộc cách mạng sắp xảy ra. Suốt mùa hè năm 1969, lần đầu tiên tôi nghe từ mô hình được sử dụng như một động từ, và không chỉ như là một danh từ.10 Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên là một vài tháng trước tác phẩm "Thị trường cho 'những quả chanh'" được xuất bản.11
Việc mô hình hoá thông tin không cân xứng trong thị trường là để đánh giá lý thuyết những gì "sự mô hình hoá" của mô hình mattít-đất sét, vốn theo thời gian và học bằng cách làm đối với lý thuyết tăng trưởng12 Đó là ứng dụng đầu tiên của một viễn cảnh nền kinh tế mới trong đó những mô hình được xây dựng một cách cẩn thận tới những chi tiết nhỏ nhất của kinh tế học vi mô hiện thực. Sự phát triển này đã đưa lý thuyết kinh tế lại gần hơn với khuynh hướng hiện thực kinh tế. Có thể nói một cách chắc chắn rằng bản phân tích của thông tin không đối xứng là thành quả đầu tiên của mô hình mới được thực hiện này. Và nó là một thành quả chín muối nhất để thu hoạch. Trong phần còn lại của bài phát biểu này, tôi sẽ thảo luận về tỉ lệ phần trăm của mô hình mới này trong lĩnh vực mới mẻ của kinh tế học vĩ mô theo hành vi.
THẤT NGHIỆP KHÔNG CỐ Ý
Tôi đã từng có một người bạn là một nhà kinh tế học, anh ta nói với tôi rằng anh ta không thể bán được ngôi nhà của mình, lời than phiền này tôi đã nói lại một cách đầy cảm thông với một trong những đồng nghiệp của anh ta. Người đồng nghiệp ấy đã trả lời rằng chỉ có một vấn đề duy nhất ở đây: ngôi nhà đã được định giá một cách không hợp lý. Nếu được định giá ở mức thấp hơn, ngôi nhà có thể bán được, có lẽ là ngay lập tức. Nền kinh tề Tân cổ điển coi thất nghiệp cố chủ ý như là một điều bất khả thi hợp với logíc, giống như việc người bạn của tôi không thể bán được ngôi nhà của anh ta. Liệu một công nhân thất nghiệp có thể nhận được một công việc nếu người đó sẵn sàng mức lương xuống thấp hơn quy định?
Câu trả lời của kinh tế học Tân cổ điển là có: những công nhân thất nghiệp là những người đang tìm kiếm công việc (vì thế, thất nghiệp, khác với việc không thuộc lực lượng lao động) nhưng không chấp thuận công việc vì họ hy vọng một mức lương cao hơn. Những người thất nghiệp có thể không cảm thấy thoải mái khi họ không thể bán sức lao động của họ với mức lương đúng như những gì họ mong đợi, nhưng ngoại trừ những người bị ảnh hưởng bởi mức lương quá thấp hay việc mặc cả hội đồng, thì họ đều là những người thất nghiệp tự nguyện, chứ không phải không tự nguyện. Tất cả mọi người đều có thể có được một công việc ở mức lương điểm thị trường bán sạch.
Trong lý thuyết kinh tế Tân cổ điển, những thời kỳ tỷ lệ việc làm giảm sút - thời kỳ sụp đổ của chu kỳ kinh doanh - có thể bị gây ra bởi một sự giảm sút trong tổng cầu, điều này đã khiến cho những công nhân bị nhầm lẫn khi chấp nhận mức lương danh nghĩa vượt quá mức của điểm thị trường bán sạch.13 Mặt khác, tỷ lệ có việc làm giảm sút có thể do những tác động tiêu cực của cung, điều này khiến cho những công nhân phải rút ra khỏi lực lượng lao động và tránh làm những công việc đang có trên thị trường. Bất kỳ bản kê khai nào của chu kỳ kinh doanh dựa vào mức độ thay đổi tự nguyện trong quá trình tìm kiếm việc làm đều phải đối mặt với một khó khăn lớn khi giải thích tại sao số người bỏ việc lại giảm tuần hoàn với sự suy sụp. Nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng do những công nhân bỏ việc vì tiền công thấp, thì số người bỏ việc cũng tăng cùng với tỷ lệ thất nghiệp. Nhưng nếu có ít người bỏ việc hơn, chứ không phải nhiều hơn, thì tỉ lệ thất nghiệp lại tăng lên. Hành vi theo chu kỳ của những người bỏ việc vì thế không thể chối cãi được.14
Thay vì phủ nhận sự tồn tại thực sự của thất nghiệp không cố ý, các nhà kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi đã đưa ra những lời giải thích chặt chẽ cho vấn đề này. Các lý thuyết tiền lương hiệu quả xuất hiện đầu tiền vào những năm 70 và 80, đã làm cho khái niệm thất nghiệp không cố ý trở nên có ý nghĩa.15 Những mô hình này thừa nhận rằng, vì những lý do như là tinh thần, sự công bằng, sức mạnh nôi lực hày thông tin không đối xứng, những người sử dụng lao động có những động lực mạnh mẽ để trả cho công nhân của họ nhiều hơn mức lương tối thiếu nếu cần thiết để thu hút lao động.16 "Mức lượng hiệu quả" như vậy là ở phía trên điểm thị trường bán sạch, cốt để cho công việc bị hạn chế và một vài công nhân không thể có được việc làm. Những công nhân này là thất nghiệp không cố ý. Trong phần tiếp theo, tôi sẽ mở rộng lập luận này để giải thích lý do tại sao thất nghiệp không cố ý thay đổi đều đặn theo chu kỳ.
Việc phát hiện theo lối kinh nghiệm khắp mọi nơi về tiền lương cho những công nhân gần như tương đương nhau lại gợi nhớ mạnh mẽ tới sự phổ biến của tiền lương hiệu quả. Rất lâu trước khi tiền lương hiệu quả chỉ là một tia sáng yếu ớt trong mắt những nhà kinh tế học vĩ mô, các nhà kinh tế lao động đã đưa ra các tư liệu về sự phân tán rộng rãi trong tiền lương qua những công việc tương đối giống nhau và giữa những công nhân với những tính cách bên ngoài giống nhau.17
Bản báo cáo của số liệu báo cáo chỉ ra rằng những công nhân có cùng phẩm chất giống nhau nhận được mức tiền lương khác nhau phụ thuộc vào nơi làm việc của họ. Ngoài ra, số liệu còn cho thấy rằng những công nhân chuyển ngành kinh doanh nhận được những thay đổi về tiền lương có tương quan với sự chênh lệch tiền lương của từng cá nhân giữa những ngành kinh doanh.18 Những ngành kinh doanh với tiền lương cao hơn (phụ thuộc vào những đặc tính riêng biệt của ngành đó) cũng có tỉ lệ người bỏ việc thấp hơn, điều này cho thấy rằng sự khác nhau trong tiền lương không đơn giản chỉ là phần chênh lệch đền bù do những điều kiện làm việc khác nhau hoặc lợi ích khác nhau 19 Bởi vậy mới tồn tại hai khái niệm "công việc tốt" và "công việc không tốt".
Sự tồn tại của công việc tốt và công việc không tốt khiến cho khái niệm thất nghiệp không cố ý trở nên có ý nghĩa: những công nhân thất nghiệp sẵn sàng chấp nhận, nhưng không thể có được những công việc giống với những việc các công nhân hiện tại đang nắm giữ mà khả năng của họ hoàn toàn giống nhau. Cùng lúc đó, những công nhân thất nghiệp không cố ý có thể không chấp nhận những công việc với mức lương thấp hay không hợp với chuyên môn cho dù chúng dễ dàng kiếm được. Định nghĩa của thất nghiệp không cố ý ẩn trong tiền lương hiệu quả phù hợp với thực tế và cân bằng với mức thuế thông thường. Một khái niệm có nghĩa khác của thất nghiệp không cố ý tạo thành một bước quan trong đầu tiên tiến tới việc xây dựng lại cơ sở cho kinh tế học theo trường phái Keynes.
Nhưng tại sao các công ty lại trả lương ở mức trên phần cuối cùng? Theo quan điểm của tôi, cách giải thích theo hướng tâm lý học và xã hội học cho tiền lương hiệu quả là có sức thuyết phục nhất.20 Ba yếu tố quan trọng nhất là: sự trao đổi qua lại (lý thuyết trao đổi quà tặng từ bộ môn nhân loại học), sự công bằng (tính công bằng từ tâm lý học) và tính đồng đội trong quy phạm một nhóm (lý thuyết mối quan hệ giữa mọi người trong nhóm trong xã hội học và lý thuyết hình thành nhóm trong tâm lý học). Phiên bản đầu tiên theo hướng "xã hội học" về lý thuyết tiền lương hiệu quả dựa trên sự trao đổi quà tặng, các công ty trả cho công nhân trên mức lương của thị trường sạch và công nhân đáp lại bằng cách làm việc cho công ty.21
Việc trả tiền lương trên mức của thị trường sạch cũng có thể được thúc đẩy bởi sự suy xét về tính công bằng: phù hợp với lý thuyết trong tâm lý học về tính công bằng, những công nhân có thể sử dụng ít sức lực và sự cố gắng của mình hơn tới mức tiền lương của họ được cho là công bằng.22 Quy phạm của một nhóm thường quyết định sự hình thành nhận thức của công nhân về việc những món quà nên được đền đáp lại như thế nào và cái gì tạo thành một mức lương công bằng. Trong phòng nghiên cứu, Fehr và đồng sự của ông đã thiết lập được cả hành vi tương hỗ và những quy phạm xã hội cho cố gắng của công nhân trong môi trường thực nghiệm.23 Phiên bản ưa thích của tôi về tiền lương hiệu quả là mô hình người trong cuộc - người ngoài cuộc, nhờ đó những người công nhân ở trong cuộc có thể ngăn cản được công ty thuyê những người bên ngoài với mức lương thị trường sạch thấp hơn mức lương người trong cuộc nhận được.24
Lý thuyết này hoàn toàn cho rằng những người trong cuộc có khả năng ngầm phá hoại việc tuyển thêm người mới vào công ty. Một nghiên cứu chi tiết của Donald Roy về một cửa hàng bán máy Illiois đã cho thấy động lực học có thể xảy ra: Trong một của hàng bán máy của Roy, người trong cuộc thành lập một nhóm trong quy phạm quan tâm tới nỗ lực và thông đồng với nhau để ngăn cản việc thuê mướn công nhân với mức lương thấp hơn từ bên ngoài. Những công nhân sản xuất nhiều hơn mức sản lượng quy định thường bị tẩy chay bởi những người khác. 25 Sự cấu kết thông đồng của những người trong cuộc chống lại những người ngoài cuộc là một động lực chính cho nhiều công ty trả lương trên mức thị trường sạch.
Một phiên bản khác của lý thuyết tiền lương hiệu quả, được đặt trong thông tin không cân xứng, coi tiền lương trên mức thị trường sạch như là một phương kể để đưa ra kỷ luật. Trong mô hình Shapiro-Stiglitz, các công ty trả lương "cao" để làm giảm động cơ trốn việc của công nhân. Tuy nhiên, nỗ lực của tất cả các công ty khi trả lương "trên mức trung bình" đẩy mức trung bình của lương lên trên mức của thị trường sạch, tạo nên sự thất nghiệp. Thất nghiệp được coi như là một phương thức để đưa ra kỷ luật, bởi vì những công nhân bị bắt quả tang đang trốn việc và bị sa thải vì thiếu cố gắng có thể được thuê lại trong một thời gian ngắn sau khi thất nghiệp. 26
Mô hình kỷ luật cho công nhân phù hợp với logíc chuẩn của kinh tế học hơn là những nghiên cứu đặt trong xã hội học và tâm lý học. Nhưng mô hình xã hội học và tâm lý học, bao gồm cả mô hình người trong cuộc - người ngoài cuộc, đều dựa vào những yếu tố bên ngoài của chiếc hộp kinh tế chuẩn, có thể đưa ra một lời giải thích tốt hơn và tổng quát hơn cho hiện tượng thất nghiệp không cố ý. Những mô hình dựa trên hành vi này nắm bắt được tầm quan trọng của Keynes, trong những chương đầu tiên của tác phẩm Lý thuyết chung, về so sánh giữa mức lương công bằng và tương đối.
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Một lời tuyên bố chủ yếu của Kinh tế học Tân cổ điển là chính sách tiền tệ, với điều kiện là nó phải được lĩnh hội đầy đủ, không còn có thể ảnh hưởng tới sản lượng hoặc việc làm. Những sự thay đổi hoàn toàn có thể thấy trước được trong mức cung tiền quy cho những người đặt mức tiền lương và giá cả theo lý trí để tăng hay giảm mức lương và giá cả theo danh nghĩa theo một tỷ lệ giống hệt nhau, để mặc cho sản lượng và việc làm không thay đổi. 27 Tuy nhiên, giả thuyết Tân cổ điển này mâu thuẫn với bằng chứng theo kinh nghiệm về ảnh hưởng của chính sách tiền tệ và niềm tin phổ biến vào sức mạnh của ngân hàng trung ương có thể tác động tới diện mạo chung của nền kinh tế.
Một đóng góp to lớn vào kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi là khi chứng minh được rằng, dưới những kết luận dựa trên hành vi có ý nghĩa, chính sách tiền tệ hoàn toàn có thể ảnh hưởng tới kết quả như là kinh tê học theo trường phái Keynes đã xác nhận. Tâm lý học dựa trên kinh nghiệm đã phác hoạ những người đưa ra kết luận như là "những nhà khoa học theo trực giác", những người tổng hợp thông tin và đưa ra sự lựa chọn dựa vào cấu trúc tinh thần đơn giản. 28 Sự tin tưởng vào những quy tắc tự đặt đã bỏ quên những yếu tố mà sự quan trọng của chúng chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ tới lợi nhuận và lợi ích. Điều này liên quan tới sự thiếu hụt của nhận thức.
Trong phạm vi giá cả và tiền lương, những luật lệ đơn giản cũng có thể là nguyên nhân của sự trì trệ của tiền lương (và giá cả chung) - hành vi "giá cả/tiền lương ổn định" chính xác mà các nhà kinh tế học Tân cổ điển đã chế nhạo một cách khinh miệt. Trong bài phê bình lý thuyết Tân cổ điển, hành vi tiền lương theo quán tính được đưa ra trong "tổng hợp tân cổ điển" là phi lý, hao tốn tiền của cho công nhân và công ty, vì thế là không tin tưởng được. Các nhà kinh tế học dựa trên hành vi đã đối phó lại bằng cách chứng minh rằng quy tắc tự đặt liên quan tới "ảo ảnh tiền" không những tầm thường mà còn có thể nhận biết được - không liều lĩnh cũng không có vẻ hợp lý: những thiệt hại từ sự tin tưởng vào những luật lệ đó là rất nhỏ. 28
Khi làm việc cùng với Janet Yellen, lần đầu tiên tôi đã chứng minh kết quả này trong phạm vi của một mô hình với mức lương hiệu quả và cuộc cạnh tranh độc quyền. Chúng tôi kết luận rằng một vài người đặt ra giá cả theo quy tắc tự đặt để giữ cho giá ổn định tiếp theo một cú sốc đối với cầu (bị gây ra bởi một sự thay đổi trong cung tiền tệ). Chúng tôi cũng chỉ ra rằng những mất mát của các công ty theo "quy tắc tự đặt" từ những thất bại của họ khi điều chỉnh lại giá cả theo một sự thay đổi trong cung tiền tệ là bậc hai (hay nói một cách khác là rất nhỏ),29 nhưng ngược lại ảnh hưởng của cú sốc tiền tệ lên sản lượng trong nền kinh tế này là bậc một (hay nói một cách khác là rất lớn) so với mức độ của cú sốc đó.30 Chúng tôi đặt tên cho những chiến lược của quy tắc tự đặt được thuê bởi các công ty với việc đặt giá quán tính là "gần như dựa trên lẽ phải" vì những mất mát mà họ phải chịu khi bắt đầu thực hiện tối ưu hoá hoàn toàn là bậc hai ( tức là rất nhỏ).
Logíc của kết quả then chốt - sự ổn định của giá cả là vừa đủ để truyền sức mạnh to lớn cho chính sách tiền tệ - rất đơn giản. Cùng với cạnh tranh độc quyền, chức năng lợi nhuận của mỗi công ty chỉ là thứ yếu trong giá cả của nó cốt để cho chức năng lợi nhuận không thay đổi trong vùng cận biên của giá cả tối ưu của nó. Vì vậy, bất cứ sự chênh lệch nào từ giá cao nhất của lợi nhuận gây ra tổn thất cho tiền lãi là rất nhỏ - bậc hai đối với mức độ của những chệnh lệch đó. Nhưng nếu sự chênh lệch từ lợi nhuận của một số lượng lớn các công ty là bằng nhau - ví dụ, nếu tất cả họ đều chậm trễ trong việc điều chỉnh giá cả theo sự thay đổi trong cung tiền tệ - thì số dư tiền - cung tiền tệ bị giảm bởi mức giá cả - thay đổi một số lượng ít so với một tình thế với hành vi thiết lập giá cả hoàn toàn lạc quan.
Sự thay đổi đầu tiên trong số dư tiền lần lượt gây ra những thay đổi nhỏ trong tổng cầu, sản lượng và việc làm. Ví dụ, giả sử cung tiền tệ tăng tới một phân số e và một bộ phận nhỏ các công ty giữ giá của họ không thay đổi. Tổn thất của mỗi công ty, so với hành vi lạc quan, tương đối cân xứng với bình phương của e. Nếu e, ví dụ là .05 thì bình phương của nó hoàn toàn là một số rất nhỏ, .0025, bởi vậy tổn thất từ ổn định giá cả hầu như rất nhỏ. Tuy nhiên, giả sử cầu tiền tệ tỷ lệ với thu nhập, thì sự thay đổi trong sản lượng thực tỷ lệ với e. (với hành vi tăng đến tột cùng của các công ty, sự thay đổi trong cung tiền tệ khiến sản lượng không thay đổi.)
Vì thế những chệch hướng nhỏ từ tính duy lý đầy đủ - thực tế là những chệch hướng nhỏ và hợp lý từ tính duy lý đầy đủ - làm thay đổi hoàn toàn kết luận rằng những thay đổi mong đợi trong cung tiền tệ không hề ảnh hưởng tới thu nhập thực tế và sản lượng. 31 Hành vi định gía theo quy tắc tự đạt có rất nhiều hình thức. Ví dụ, những mô hình giá cả (tiền lương) không ổn định, trong đó các công ty giữ mức giá (tiền lương) danh nghĩa được ấn định trong một thời gian, tương xứng với quá trình định giá (hay tiền lương). 32 Trong mô hình của Taylor, trong mỗi một giai đoạn, một nửa các công ty đặt ra giá danh nghĩa, giá này họ giữ trong khoảng thời gian hai thời kỳ.33 Sự khác nhau trong mô hình này, theo như Calvo, thừa nhận rằng giá danh nghĩa được điều chỉnh trong một vài khoảng khác nhau.34
Những nhà kinh tế học Tân cổ điển phản đối cả hai sự xuất hiện của mô hình, thực tế là định giá như vậy không phải là tối ưu nhất. 35 Tất nhiên là chúng đều chính xác: thay vì giữ giá danh nghĩa không thay đổi trong suốt một khoảng thời gian cố định, các công ty của Taylor và Calvo sẽ làm tốt hơn bằng cách thành lập giá khác nhau trong một khoảng thời gian phù hợp với mong đợi của công ty về cung tiền tệ (tổng cẩu). Hành vi tối đa hoá lợi nhuận như vậy sẽ hoàn lại những thay đổi trong cung tiền.
Tuy nhiên, chiến lược định giá (và định tiền lương) của Taylor/Calvo gần như dựa trên lý trí: một số lượng nhỏ sự cứng nhắc danh nghĩa đã mô tả rõ đặc điểm của những mô hình này là phù hợp để cho phép chính sách tiền tệ tạo sự ổn định, tuy vậy những tổn hại liên quan tới một chiến lược làm cho giá cả biến đổi trong những khoảng nhất định là rất ít. 36 Có rất nhiều hình thức khác trong hành vi quy tắc tự đặt mà chính sách hoàn trả lại tiền có hiệu lực.37
Những mô hình quy tắc tự đặt đã giải đáp một câu hỏi vô cùng khó khăn đặt ra bởi Robert Lucas liên quan tới hiệu lực của chính sách tiền tệ với nhưng kỳ vọng mang tính lý trí.38 Kinh tế học tân cổ điển nhận ra rằng rất khó giải thích mối quan thoáng qua giữa tiền tệ và sản lượng. Kinh tế học dựa trên hành vi mới, với những hành vi dựa trên lý trí hợp lý, đã sản sinh ra một mối quan hệ bền chặt giữa những thay đổi trong cung tiền và thay đổi trong sản lượng.

Kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi và hành vi kinh tế vĩ mô (PHẦN 2 )



ĐƯỜNG PHILLIPS VÀ NAIRU
Có lẽ mối quan hệ vĩ mô riêng lẻ quan trọng nhất là đường Phillips. Đường Phillips "giá-giá" liên kết tỷ lệ lạm phát với tỉ lệ thất nghiệp, tỉ lệ lạm phát mong đợi, và những biến số ảnh hưởng tới tổng cung, như là giá dầu lửa hoặc lương thực. Sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp ẩn trong mối quan hệ này định rõ "tình trạng khả thi" cho chính sách tiền tệ và vì thế đóng vai trò quyết định trong công thức của nó. Đường Phillips lần đầu tiên được đánh giá cho nước Anh, 39 sau đó là cho Hoa Kỳ 40 và nhiều nước khác nữa.41
Nền tảng của Đường Phillips là đường cung và đường cầu. Phillips chỉ ra rằng khi cầu cao và tỉ lệ thất nghiệp thấp, thì công nhân có thể thương lượng để mức lượng danh nghĩa tăng cao hơn so với khi cầu giảm và thất nghiệp thì tăng. Chính sách giá cả của các công ty chuyển lạm phát tiền lương (được điều chỉnh cho phù hợp với năng suất) thành lạm phát giá cả. Vì vậy, đối với những người hoạch định chính sách, sự cân bằng lâu dài tồn tại giữa lạm phát và thất nghiệp.
Vào cuối những năm 60, Milton Friedman (1968) và Edmund Phelps (1968) đã thêm vào một lời khuyên mới vô cùng quan trọng. Họ chỉ ra rằng những công nhân quan tâm và thoả thuận về mức lương thực tế, chứ không phải là mức lương danh nghĩa: những công nhân thường hy vọng và nhận được bồi thường cho lạm phát mong đợi sau đó thoả thuận từ đó, họ yêu cầu mức lương thực tế cao hơn khi tỉ lệ thất nghiệp giảm. Một lần nữa, chính sách giá cả chuyển lạm phát tiền lương thành lạm phát giá cả.
Kết quả của sự chuyển đổi nhỏ này theo kết luận - khi công nhân đòi tăng mức lương thực tế, không phải danh nghĩa - là rất lớn: thay thế cho sự cân bằng kéo dài giữa thất nghiệp-lạm phát, hiện tại chỉ có một tỉ lệ thất nghiệp "tự nhiên" duy nhất phù hợp với lạm phát ổn định. Cùng với việc thương lượng "mức lương thực tế", đường Phillips dài hạn - sự kết hợp giữa thất nghiệp/ lạm phát phù hợp với sự cân bằng giữa lạm phát thực tế và lạm phát mong đợi - thẳng đứng bởi vì có một và chỉ một tỷ lệ thất nghiệp - "tỉ lệ tự nhiên" - mà tại đó lạm phát thực tế và lạm phát mong đợi phù hợp
Để hiểu được tại sao đường Phillips dài hạn lại thẳng đứng, hãy tưởng tượng rằng một ngân hàng trung ương cố gắng thông qua chính sách tiền tệ để giữ cho tỉ lệ thất nghiệp dưới tỉ lệ tự nhiên. Cung với thị trường lao động chặt chẽ một cách khác thường, những công nhân yêu cầu tăng mức lương danh nghĩa cao hơn lạm phát mong đợi (cộng số lương thực tế thông thường vào sự tăng năng suất. Các công ty lần lượt thông qua việc tăng giá trị liên đới đối với giá cả, cốt để lạm phát vượt quá những gì công nhân lúc đầu tham gia khi họ thương lượng. Với tỉ lệ thất nghiêpẹ dưới mức tự nhiên, lạm phát thực tế vì thế vượt quá lạm phát mong đợi.
Trước kia, những công nhân đã bị lừa gạt. Bởi vậy, thời gian qua, lạm phát mong đợi và lạm phát lần lượt tăng mạnh. Với tỉ lệ thất nghiệp được giữ dưới mức tỉ lệ tự nhiên, kết quả là lạm phát tăng hơn hết. Giống như vậy, mô hình Friedman-Phelps dự đoán rằng một ngân hàng trung ương cố gắng giữ tỉ lệ thất nghiệp trên mức tỉ lệ tự nhiên một cách vô hạn định cuối cùng thường gây ra lạm phát tăng nhanh chóng. Chỉ có tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên là gây ra lạm phát ổn định.
Các nhà kinh tế chấp nhận giả thuyết tỉ lệ tự nhiên một cách đặc biệt ngay sau khi nó được đưa ra bởi Friedman và Phelps vào cuối những năm 60. Ba lý do khiến giả thiết này được ưu ái là: Đầu tiên, nó đã giải thích một cách xuất sắc lạm phát và thất nghiệp vào những năm 60 và 70. Tại thời điểm tỉ lệ thất nghiệp thấp vào cuối những năm 60, lạm phát tăng tới mức lạm phát mong đợi, thay đổi lạm phát thất nghiệp ngắn hạn cân bằng. Vì thế những năm 70 bắt đầu bằng một cân bằng lạm phát thất nghiệp ít thuận lợi hơn nhiều so với những năm 60.
(Các nhà phân tích đã bỏ qua những lời giải thích hợp lý là khi lạm phát tăng, như nó đã từng tăng vào cuối những năm 60, việc thương lượng tiền lương và định giá cả bắt đầu lưu tâm tới lạm phát mong đợi, điều này trước kia đã bị bỏ qua.) 42 Thứ hai là những đánh gia theo lối kinh nghiệm của đường Phillips đã đưa ra những hệ số của những lạm phát trước kia mà tổng của chúng không khác về mặt thống kê so với số 1. Kết luận được đưa ra là những điều kiện lạm phát trễ trong bản đánh giá như thế phù hợp với lạm phát mong đợi, điều này tự động đi ngược lại với trung bình của lạm phát trước kia, và một kết luận nữa là hệ số của lạm phát mong đợi trong việc quyết định tỉ lệ lạm phát hiện tại là bằng 1. 43 Cuối cùng là các nhà kinh tế học có khuynh hướng chấp nhận những giả thuyết dựa vào lý trí không có giá trị, mặc dù chỉ chấp nhận bằng những thử nghiệp với sức mạnh tương đối thấp. 44
Các nhà kinh tế học không nên chấp nhận giả thuyết tỉ lệ tự nhiên quá vội vã. Có rất nhiều lý do cả về mặt lý thuyết cũng như thực hành để nghi ngờ về giả thuyết này. Về mặt lý thuyết, giả thuyết tỉ lệ tự nhiên nhắc tôi nhớ tới một cuốn sách với quy tắc tự đặt về cách ăn kiêng thông thường. Theo như quy tắc tự đặt đó, đối với mỗi 3200 calo dư thừa chúng ta ăn, chúng ta tăng lên 1 pound. Và với mỗi 3200 calo chúng ta thiếu thì chúng ta giảm đi 1 pound. Điều này khiến tôi tưởng tượng ra hai anh em sinh đôi. Một trong hai anh em ăn vừa đủ để giữ cho trong lượng của anh ta đều đều. Còn người kia ăn nhiều hơn 100 calo bánh quy mỗi ngày. Nếu như quy tắc tự đặt là đúng thì sau một năm người ăn bánh quy sẽ năng hơn người kia 11 pound. Sau một thập kỷ anh ta sẽ nặng hơn 110 pound. Và năm mươi năm sau, nếu anh ta có thể sống lâu như thế, anh ta sẽ nặng hơn 550 pound.
Như tất cả mọi người mong đợi, quy tắc tự đặt đã bị sụp đổ khi được áp dụng suốt một khoảng thời gian dài: sự thể hiện chính xác hơn của mối quan hệ giữa trọng lượng và calo chỉ ra rằng việc duy trì cân nặng cao hơn đòi hỏi phải có một lượng calo dư thừa. Thật may mắn là trọng lượng của hai anh em sinh đôi sẽ không khác nhau mãi mãi. Cũng giống như vậy, phỏng đoán của tôi là ít nhất đối với tỉ lệ thất nghiệp, lạm phát sẽ tiệm cận với giá trị bất biến hơn là tăng hay giảm một cách vô hạn định. Lý luận như vậy hoàn toàn có thể sai, nhưng sai sót từ phép loại suy của cuốn sách ăn kiêng theo quy luật tự đặt đã cảnh báo cho chúng ta biết rằng giả thuyết tỉ lệ tự nhiên có vẻ hơi kỳ cục. Tại tỷ lệ thất nghiệp rất thấp, dự đoán của Friedman/Phelps về lạm phát tăng nhanh dường như hoàn toàn hợp lý và thích hợp. 45 Nhưng tôi nghi ngờ về tính khả thi của lý thuyết khi tỉ lệ thất nghiệp cao.
Sự nghi ngờ của tôi liên quan tới giả thuyết tỉ lệ tự nhiên được ủng hộ bởi một thực tế mang tính kinh nghiệm chỉ ra rằng tính khả thi của nó không thể áp dụng được ở khắp mọi nơi. Tỉ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ trong những năm 30 hiển nhiên là vựơt quá - chắc chắn là vượt quá - tỉ lệ tự nhiên hợp lý. Theo như giả thuyết tỉ lệ tự nhiên, giảm phát giá cả tăng nhanh trong suốt cả một thập kỷ. Điều đó đã không xảy ra.
Giá cả giảm xuống một thời gian, nhưng lạm phát ngừng lại sau năm 1932; không có lạm phát nào đáng kể trong suốt mười năm qua, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp rất cao. Bằng chứng này chỉ ra rằng, ít nhất sau một thời gian, khi tỉ lệ lạm phát thấp trong khi mức độ thất nghiệp lại cao, thì giả thuyết tỉ lệ tự nhiên sẽ bị sụp đổ. Một thất bại như thế sẽ không quá quan trọng đối với một lý thuyết bắt nguồn từ những quan sát thực tế, nhưng nó tạo ra một vết rạn cho mối quan hệ bắt nguồn từ những yếu tố cơ bản, những yếu tố được chấp nhận bởi vì chúng được cho rằng sẽ tồn mãi mãi và tồn tại ở khắp mọi nơi.
Bằng chứng của những năm 30 không phải là duy nhất. Nền kinh tế hiện đại để lộ ra những đặc tính giống nhau. Ví dụ, Pierre Fortin ước lượng là từ năm 1992 tới năm 2000, nền kinh tế Canada trải qua gần 12 điểm của tỉ lệ thất nghiệp nhiều hơn ước lượng 8% của NAIRU. 46 Cùng thời gian đó, lạm phát trung bình rất thấp 1 ½ phần trăm một năm. Theo như lý thuyết tỉ lệ tự nhiên, trung tâm của lạm phát giảm nên giảm xuống khoảng chừng 6 phần trăm vì đánh giá cơ bản của đường Phillips là ½. Thay vào đó, lạm phát vào thời kỳ đó giảm xuống chỉ còn 0.1 phần trăm.
Bằng chứng thuộc toán kinh tế chỉ ra rằng lý thuyết tỉ lệ tự nhiên nằm ở bãi cát hơn là năm ở trong đá. Đánh giá tại những thời điểm khác nhau về tỉ lệ tự nhiên chỉ ra rằng nó thay đổi theo thời gian; nhưng thậm chí ngay cả khi tính tới những thay đổi đó, những đánh giá của quá trình tỉ lệ tự nhiên đã đưa ra những lỗi lầm có chất lượng cao. Staiger, Stock và Watson (1997) ước tính một khoảng tin cậy 95% cho tỉ lệ tự nhiên Hoa Kỳ lên tới 5 phần trăm; tỉ lệ này cao gấp ba lần sự chênh lệch chuẩn của tỉ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ suốt 50 năm qua.
Trong những nghiên cứu gần đây, William Dickens, George Perry và tôi đã phát hiện ra hai giả thuyết dựa trên hành vi, trái ngược lại với mô hình tỉ lệ tự nhiên, đã đưa ra một sự cân bằng ổn định giữa thất nghiệp và lạm phát tại thời điểm thất nghiệp đủ cao và tỉ lệ lạm phát thấp. Giả thuyết đầu tiền là "Keynes thuần tuý": công nhân phản đối và các công ty hiếm khi lợi dụng, cắt giảm mức lương danh nghĩa. Giả thuyết thứ hai liên quan tới vai trò của lạm phát kỳ vọng trong thương lượng mức lượng: chúng ta tranh luận rằng, tại thời điểm lạm phát rất thấp, môt số lượng rất lớn các công nhân không coi lạm phát đủ quan trọng để ảnh hưởng tới những quyết định của họ. Tuy vậy, khi lạm phát tăng, những tổn hại của việc bỏ qua nó cũng tăng lên, và vì thế một số lượng lớn các công ty và công nhân lưu tâm tới nó khi thương lượng mức lương.
Kết luận của Keynes rằng những công nhân phản đối việc cắt giảm mức lương danh nghĩa là hoàn toàn phù hợp với sự hiểu biết theo trực giác của họ về tâm lý. Kết luận cũng đồng ý với lý thuyết tâm lý học và các bằng chứng. Lý thuyết triển vọng thừa nhận rằng những cá nhân đánh giá những thay đổi trong hoàn cảnh của họ theo lợi ích hay thiệt hại của họ dựa theo một số điểm nhất định. Bằng chứng chỉ ra rằng những cá nhân đó đã quan tâm quá nhiều vào việc làm thế nào để tránh thiệt hại chứ không hề quan tới việc làm sao để tăng thêm lợi ích. Kahneman và Tversky đã chứng minh rằng rất nhiều kết quả thực nghiệm trái ngược với việc tăng lợi nhuận tới tột cùng có thể làm hợp lý hoá bằng lý thuyết kỳ vọng.
Phía sau sự không linh động của tiền lương là một mối liên hệ tự nhiên của lý thuyết kỳ vọng nếu như tiền lương hiện tại được chấp nhân bởi công nhân sau khi họ đã liệu tính những mất mát và lợi nhuận. Ủng hộ quan điểm này, Shafir, Diamond và Tversky (1997) tìm thấy trong một bản thăm dò ý kiến rằng, cơ cấu tinh thần của từng cá nhân không chỉ được định nghĩa theo ngôn ngữ thực tế được đưa ra bởi những nhà kinh tế học cổ điển mà còn thể hiện một vài ảo ảnh tiền tệ.
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu theo lối kinh nghiệm chỉ ra rằng tiền lương thực tế là rất khó khăn. Sử dụng những dữ liệu theo báo cáo, Card và Hyslop (1997) và Kahn (1997) nhận ra rằng những thay đổi trong phân bổ tiền lương danh nghĩa không đối xứng xung quanh số 0. Fortin tìm thấy những thay đổi tiền lương rất lạ tại điểm không theo dữ liệu của Canada. Từ năm 1992 tới 1994, khi lạm phát tại Canada là 1.2 phần trăm và tỉ lệ thất nghiệp trung bình khoảng 11.0 phần trăm, chỉ có khoảng 5.7 phần trăm của hiệp định hợp nhất không điều chỉnh theo giá sinh hoạt có mức lương năm đầu tiên bị cắt giảm, trong khi đó 47 phần trăm có mức tiền lương ổn định. 47
Trong những cuộc phỏng vấn chi tiết tại Connecticut, Bewley nhận ra rằng những người quản lý chỉ sẵn sàng cắt giảm mức lượng danh nghĩa như là một phương sách cuối cùng. 48 Để điều tra xem liệu các công ty có cắt giảm tổng bồi thường thông qua việc cắt giảm lợi nhuận trái ngược lại với cắt giảm tiền lương, Lebow, Saks và Wilson kiểm tra ngành kinh doanh của từng cá nhân được kiểm soát bởi Chỉ số chi phí của việc thuê nhân công: họ nhận ra rằng cắt giảm lợi nhuận chỉ là một sự thay thế rất nhỏ đối với việc cắt giảm tiền lương. 49 Sử dụng số liệu của Thuỵ Sỹ Fehr và Goette phát hiện ra rằng thậm chí lạm phát thấp trong một khoảng thời gian 7 năm và tăng năng suất thấp không làm tăng tính thường xuyên của việc cắt giảm tiền lương. 50
Tại thời điểm lạm phát thấp, sản lượng và lạm phát sẽ cân bằng trong một thời gian dài nếu như có một sự phản đối với việc cắt giảm tiền lương. Không giống như mô hình của Friedman-Phelps, trong đó sự cân bằng như thế này là rất ngắn ngủi, việc lạm phát tăng trong một thời gian dài (nếu nó gần tới điểm không) sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp giảm đáng kể và sản lượng tăng nhiều hơn. 51 Trình tự đi như sau:
Trong cả thời điểm tốt cũng như không tốt, một vài công ty và ngành kinh doanh làm việc tốt hơn những người khác. Tiền lương cần phải được điều chỉnh lại để phù hợp với sự khác nhau trong vận mệnh kinh tế. Trong thời gian lạm phát vừa phải và sản lượng tăng, tiền lương có thể dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp. Những công ty không may mắn có thể tăng tiền lương họ trả ít hơn mức trung bình, trong khi đó những công ty may mắn khác có thể trả cho công nhân của họ trên mức trung bình. Tuy nhiên, nếu sản lượng tăng ít (như thời kỳ từ đầu những năm 70 cho tới giữa những năm 90 tại Hoa Kỳ) và không có lạm phát thì các công ty cần cắt giảm tiền lương thức tế của họ , việc này chỉ có thể làm được bằng cách cắt giảm tiền lương của những người làm công cho họ.
Dưới những kết luận thực tế về tính dễ thay đổi và sự tương quan theo chuỗi của những đột biến trong cầu thông qua các công ty, tính thường xuyên cần thiết của việc cắt giảm tiền lương tăng cũng nhanh như việc lạm phát giảm. Ác cảm về phía công ty khi lạm dụng việc cắt giảm mức lương theo danh nghĩa dẫn tới việc tăng tỉ lệ thất nghiệp lâu dài. Bởi vì mức lượng thực tế tại điểm lao động được cung cấp cao hơn mức việc làm thì lạm phát sẽ thấp, tỉ lệ thất nghiệp phù hợp với lạm phát ổn định tăng khi lạm phát giảm xuống những mức độ thấp hơn.
Spillovers đưa ra một tác động của việc làm chung thay đổi trong những công ty đó bị ép buộc bởi sự bất lực của họ trong việc cắt giảm tiền lương. Vì thế, lợi ích của giảm phát ít là nó "bôi thêm dầu nhớt cho bánh xe của thị trường lao động". Sự bắt chước của một mô hình với những đột biến và ác cảm về phía công ty đối với việc cắt giảm tiền lương danh nghĩa gợi ý rằng, với những thông số thật được lựa chọn, sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp rất khó khăn tại thời điểm lạm phát thấp, trong khi đó sản lượng tăng cũng thấp.
Ví dụ, một sự giảm sút lâu dài trong lạm phát từ hai phần trăm một năm xuống tới điểm không sẽ dẫn tới một sự tăng lâu dài trong tỉ lệ thất nghiệp xấp xỉ hai phần trăm.52 Đánh giá của đường Phillips đối với Hoa Kỳ sau Thế chiến thứ II, tương xứng với mô hình bắt chước vưa được mô tả, đưa ra những kết quả giống nhau.
Khi đường Phillips được đánh giá được sử dụng để mô phỏng theo lạm phát đã trải qua vào những năm 30, sự việc này rất giống với lạm phát thực sự mà Hoa Kỳ đã trải qua trong thời kỳ kinh tế trì trệ. 53 Sự đóng giả có thể so sánh được về mô hình tỉ lệ tự nhiên, trái lại, chỉ ra lạm phát tăng rất nhanh vào những năm 30.
Một giả thuyết khác về thái độ cũng tạo ra sự cân bằng ổn định giữa lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp ở mức làm phát thấp. Giả thuyết này dựa trên quan điểm rằng lạm phát không tăng vọt khi ở mức thấp, những sự thay đổi mức giá có thể xảy ra trong tương lai được bỏ qua trong khi thoả thuận tiền công. 54 Với sự cạnh tranh độc quyền và tiền lương hiệu dụng, việc bỏ qua lạm phát khi nó đang ở mức thấp là hợp lý.55 Nghiên cứu tâm lý học về những sự khác nhau nổi trội cũng như ngiên cứu về nhận thức tâm lý đều cho thấy con người thường bỏ qua những sự thay đổi không quan trọng đối với quyết định của họ.56 Các nhà kinh tế lượng ước tính bước thay đổi của Phillips mà tạo khả năng cho lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng tới lạm phát hiện tại khi lạm phát ở mức cao nhiều hơn khi làm phát ở mức thấp phù hợp với giả thuyết rằng: ở mức lạm phát cao, tổng hệ số của lạm phát xảy ra trong quá khứ gần với một. 57 Ở mức lạm phát thấp, tổng hệ số gần với không.Cũng giống như vậy phép phân tích hồi quy sử dụng kết quả tính toán của cuộc điều tra về lạm phát kỳ vọng như một chỉ sổ độc lập đưa ra hệ số về lạm phát kỳ vọng ở mức cao sẽ cao hơn khi lạm phát ở mức thấp. 58 Rõ ràng, khi thời kỳ lạm phát ở mức cao và thấp kết hợp để ước tính một mô hình phi tuyến của ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của chúng phụ thuộc vào những thời kỳ lạm phát trước đó.
Một biểu hiện của việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi về mức lạm phát rất thấp dẫn tới hậu quả lâu dài là mức thất nghiệp cao và mức năng suất thâp, có mối quan hệ mật thiết với các chinh sách tiền tệ. Hầu hết chúng ta đều cho rằng ngân hàng trung ương rất cẩn trọng, bảo thủ và an toàn. Nhưng tôi lại thấy rất nhiều ngân hàng trung ương giống như nhưng tay lái xe liều lĩnh: dể tránh những nguy cơ lạm phát trong hiện tại, họ lái xe sát vào lề đường, giữ mức lạm phát quá thấp và mức thất nghiệp quá cao. Trong những năm 1990, Canada có mức lạm phát rất thấp và một khoảng cách thất nghiệp chưa từng thấy - gần bốn phần trăm - với Mỹ. 59 Châu Âu cũng có tỉ lệ thất nghiệp cao và mức lạm phát rất thấp. Nhật Bản còn tiến xa hơn với giảm phát. Các ngân hàng trung ương làm theo những quyển sách giáo khoa về giả thuyết tỉ lệ tự nhiên cần nghe theo lời khuyên của Oliver Cromwell của Quốc Hội thuộc nhà thờ Scotland:" Tôi van xin những người trong lòng Chúa hãy nghĩ có thể các bạn đã mắc sai lầm." Đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi mà cuộc điều tra đầu tiên về nhận thức tâm lý sử dụng lời trích dẫn này để chứng minh cho một sai lầm phổ biến: đó là quá tư tin.60
TIẾT KIỆM
Việc mọi người thường tiết kiệm quá ít là một chuyện phổ biến. Để bù vào thiệt hại này, hầu hết chính phủ các nước phát triển đều dành một khoản lớn cho người già lúc về hưu. Thêm vào đó, rất nhiều ông chủ đòi hỏi và bao cấp đóng góp lương hưu cho người làm công. Thậm chí với những bước tiến này, hầu hết mọi người vãn cho rằng tài sản tài chính của hầu hết các hộ gia đình đều ít hơn rất nhiếu so với mức họ cần để duy trỉ mức tiêu dùng khi về hưu.
Đối với ngành Tân kinh tế học cổ điển, tiết kiệm quá nhiều hay qua ít, giống như thất nghiệp không tự nguyện, là một việc không thể thực hiện được, một sự trái ngược rõ ràng với các giả thuyết của kinh tế học hiện đại. Bởi vì tiết kiệm là kết quả của sự tối đa hoá độ thoả dụng của từng cá nhân, nó phải, do thiếu các ngoại hưởng, đúng. Ngược lại, kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi đã phát triển các công cụ lý thuyết và các chiến lược dựa trên kinh nghiệm để nâng cao hiểu biết về hành vi thay đổi theo thời gian kiểu như thế này.
Một cuộc cải cách mang tính lý thuyết then chốt cho phép những phân tích hệ thống về hành vi thay đổi theo thời gian là một sự công nhận rằng các cá nhân có thể tổi đa hoá hàm thoả dụng mà đã được tách ra khỏi những gì được coi là tượng trưng cho " phúc lợi thực sự". Một khi sự phân biệt này được chấp nhận, "tiết kiệm quá ít" trở thành một khái niệm có nghĩa. Tư tưởng này được minh hoạ bằng huyền thoại những con lemmut. Người ta tin rằng cứ một vài năm một lần những con lemmut lại tập họp đông đủ để tham gia vào một cuộc tử hành mà kết thúc bằng việc chúng đều nhảy xuống biển.62 Những hành vi của lemmut chứng tỏ một sự phân biệt chung giữa các nhà tâm lý học, nhưng sự phân biệt này không xảy ra giữa các nhà kinh tế. Trừ phi Chúa hiển linh bất ngờ trong lần nhảy xuống nước, độ thoả dụng và phúc lợi được đưa ra bởi mỗi hàm, nhưng chúng tối đa hoá lấn nhau.
Nghĩ về điều này: quan điểm phổ biến về tiết kiệm, rằng mọi người tiết kiệm quá ít cũng được miêu tả tương tự. Việc quyết định liệu mọi người tiết kiệm quá nhiều hay quá ít liên quan tới việc hỏi xem liệu con người, giống như nhưng con lemmut, có một chức năng có ích miêu tả lợi ích của chúng, nhưng tối đa hoá lợi ích của những con khác. 63 Những dẫn chứng này đưa ra những khác biệt lớn lao giữa hai khái niệm. Những tỉ lệ phủ định cao của việc giảm thời gian là cần thiết cho việc giải thích tỉ lệ thu nhập. 64 Tuy nhiên, kết quả các phiếu điều tra về việc cân bằng tiết kiệm tiêu dùng cho thấy mọi người cho rằng họ cần phải tiết lộ về tỉ lệ giảm giá ở mức có lợi trên trung bình một chút.65
Hàm triết khấu hyperbolic được sử dụng trong ngiên cứu sự lựa chọn tiết kiệm theo thời gian, có thể được sử dụng để hình thức hoá sự phân biết giữa hàm thoả dụng miêu tả hành vi tiết kiệm thực sự và hàm thoả dụng tính toán lợi ích thu được từ những hành vi trên. Hàm hyperbolic giải quyết những khó khăn con người gặp phải khi điều khiển bản thân.
Ngược lại, theo tỉ lệ chiết khấu giảm theo hàm mũ mà được coi là học thuyết tân cổ điển, hàm hyperbolic cho rằng tỉ lệ chiết khấu từng được sử dụng để đánh giá sự đánh đổi giữa sự suy giảm của các thời kỳ cận nhau khi cột thời gian kéo dài: các cá nhân sử dụng tỉ lệ chiết khấu cao để đánh giá những sự lựa chọn mà yêu cầu một sự đánh đổi, hi sinh ngay lập tức để đạt được thành quả trong tương lai và tỉ lệ chiết khấu thấp hơn khi một sự hi sinh như vậy bị trì hoãn tới tương lai. Vì vậy, họ kiên nhẫn khi đưa ra những quyết định đòi hỏi việc trì hoãn tiền thù lao khi những sự hi sinh này bị trì hoãn; nhưng lại thiếu kiên nhẫn trong việc trì hoãn tiền thù lao trong một thời gian ngắn. Bởi vì mức tiêu thụ hiện tại tăng vọt nhanh hơn trong mức tiêu thụ trong tương lai, các cá nhân chần chừ đối với việc tiết kiệm. Hàm hyperbolic thống nhất với những phát hiện có tính thử nghiệm: Chủ thể con người và con vật thường muốn trì hoãn tiền thù lao trong tương lai hơn là thực hiện điều nay ngay lập tức.
Hai hình thức của việc trì hoãn này gây ra bới chiết khấu hyperblic. "Trì hoãn ngây thơ" xảy ra khi các cá nhân nhận định không chinh xác là hàm thoả dụng của họ sẽ khác đi trong tương lai. Họ cũng dự đoán một cách sai lầm rằng mặc dù hôm nay tăng vọt nhưng ngày mai sẽ khác. Họ không thể thấy rằng bản thân ngày mai và hôm nay khác nhau, vì vậy ngày mai cũng sẽ tăng vọt như hôm nay một khi nó đã tiến gần thêm một bước. Những người hay chần chừ một cách ngây thơ tin tưởng một cách sai lầm rằng họ sẽ an toàn (ăn kiêng, tập thể dục, bỏ thuốc lá…) ngày mai, mặc dù họ không làm như vậy hôm nay và họ thấy ngạc nhiên rằng những sự hi sinh bị trì hoãn hôm nay cũng sẽ lại bị trì hoãn ngày mai. Theo như hệ thống những từ chuyên ngành của O'Donoghue và Rabin (1999), những người chần chừ ở dạng phức tạp hơn gọi là preproperation. Những người này có những sự kỳ vọng đúng đắn về tương lai của họ. Họ nói với bản thân: không có lý do nào để trì hoãn việc phải làm trong ngày hôm này nếu như ngày mai sẽ đặc biệt tăng vọt. Nếu ngày mai đặc biệt tăng vọt thì tôi sẽ sử dụng tất cả những gì tôi đã gác sang một bên ngày hôm nay khi nó cũng đã đặc biệt tăng vọt. Vì vậy tôi sẽ không thực hiện việc hi sinh trong ngày hôm nay.
Laibson sử dụng chiết khấu hyperbolic như là một yếu tố căn bản của một chương trình điều tra về hành vi tiết kiệm và chính sách. Với đồng tác giả Repettp và Tobacman (1998) ông đã mô phỏng những ảnh hưởng của các chương trình ưu đãi thuế khác nhau trong một thể giới mà những người tiêu dùng là những người hay trì hoãn. Họ đánh giá rằng những ảnh hưởng tích cực đối với phúc lợi xã hội có được do những thay đổi nhỏ trong ưu đãi để giữ lại những gì đã làm giảm sự trì hoãn. Do công trình này, những quy định về thuế thúc đẩy các kế hoạch tiết kiệm 401 (k) đã thay đổi. Nếu các công ty lựa chọn, công nhân hiện tại có thể tự động được nhận và tự động và mặc nhiên được công nhận sự đóng góp. Việc thực hiện những kế hoạch này đã giúp tăng đáng kể tỉ lệ tham gia và kế hoạch và nhiều công nhân tiếp tục duy trỉ những đóng góp của họ ở mức ngầm định.67
Bên cạnh sự phổ biến của chương trình bảo trợ xã hội và một số chương trình khác mà "bắt buộc" người tiêu dùng phải tiết kiệm, bằng chứng rõ ràng nhất của việc tiết kiệm ít có lẽ là việc quan sát thấy rằng, khi nghỉ hưu, trung bình các cá nhân giảm đáng kể mức tiêu dùng.68, Trên thực tế, mức tiêu dùng sau khi nghỉ hưu giảm không liên tục.69 Những người có nhiều của cải hơn và thu nhập cao hơn giảm mức tiêu dùng ít hơn rất nhiều. Phát hiện này khó lý giải với vòng mức sống và mô hình chiết khấu theo hàm mũ.70
Thaler và Benartzi (2000) đã xem xét lại một kế hoạch tiết kiệm để vượt qua xu hướng hay trì hoãn của công nhân và kiểm tra điều này qua thí nghiệm ở công ti cỡ trung bình: người làm công được mời tham gia một kế hoạch tiết kiệm mà theo đó họ được chọn trước khoản tiền lấy tử khoản tăng lương để cho vào tiết kiệm. Thống nhất với chiết khấu hyperbolic nhưng không thống nhất với mô hình hàm mũ tiêu chuẩn, các công nhân chọn khoản tiết kiệm tương đối khiêm tốn từ khoản tăng lương tương lai. Trong một thời gian ngắn, tỉ lệ tiết kiệm trung bình đã tăng gấp đôi.71
THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN
Học Thuyết Chung của Keynes là tác phẩm khởi xướng viết về quan điểm tài chính hiện đại dựa trên hành vi của thị trường tài sản. Theo phép ẩn dụ của Keynes " đầu tư chuyên nghiệp có thể cũng giống như những cuộc thi trên báo ở đó những đối thủ cạnh tranh phải chọn ra sáu khuôn mặt đẹp nhất từ một trăm bức ảnh, giải thưởng được trao cho người mà có lựa chọn gần với sự lựa chọn của phần lớn những người tham gia và cuộc thi nói chung."72 Vì vậy thị trường chứng khoán thay đổi rất nhanh và cũng phản ứng nhanh với tin tức. Quan điểm này về thị trường chứng khoán ngượi với mô hình thị trường có hiệu quả ở đó giá cổ phiếu đo lường giả trị hiện tài của những sư trở lại trong tương lại phù hợp với rủi ro.
Đầu những năm 1980 Robert Shiller tiến hành một bài kiểm tra trực tiếp về giả thuyết về tính không ổn định quá mức của Keynes. Ông lý luận rằng nếu giả cố phiếu thực sự là giá trị dự báo của lợi tức kỳ vọng trong tương lai, chúng sẽ ít đa dạng hơn những lợi tức được chiết khấu. Suy nghĩ của Shiller là một ứng dụng trực tiếp của nguyên tắc số liệu đơn giản. Nếu dự báo thới tiết có quá nhiều sai lệch so với thời tiết thực sự thì dự báo thới tiết đó cần bị loại bỏ. 73 Sử dụng số liệu về giá cổ phiếu và cổ tức của Mỹ trong 100 năm qua, 74 ông tìm thấy chính xác những gỉ mà Keynes đã mong muốn: độ lệch chuẩn của giả cố phiếu (đã được giảm khuynh hướng) lớn hơn năm lân so với độ lệch chuẩn của cổ tức được chiết khấu (đã được giảm khuynh hướng). Những kết quả này được tái khảng định trong những bài kiểm tra phức tạp hơn mà cho phép chính xác tính chất không tĩnh tại của cả giả cổ phiếu và giá trị triết khấu hiện tại của cổ tức.75
Bất chấp những kết quả của những bài kiểm tra có phương sai, sự tin tưởng vào thị trường hiệu quả được củng cố bằng những kết quả dựa trên kinh nghiệm như việc tìm ra một loạt sự tương quan không nổi bật của lợi tức dựa trên số liệu hàng tháng.76 Việc phủ nhận giả thuyết rằng lợi tức có sự tương quan theo sê-ri với nhau cho thấy thị trường chứng khoán chuyển biến theo những yếu tố gần với bứơc ngẫu nhiên. Để đáp lại, Summers (1986) đưa ra một mô hình về "thị hiếu nhất thời" - vói một loạt độ lệch có tương quan vói nhau của thị trường hoàn hảo - những bài kiểm tra về tương quan hàng loạt có luỹ thửa rất thấp: luỹ thừa của những bài kiểm tra này thấp tới mức phải cần tới số kiệu của 5000 năm trước khi nó có thể phân biệt 50 phần trăm của thời gian với giả thuyết bước ngẫu nhiên và một thị hiếu nhất thời có thể đẩy giá cổ phiếu lên 30 phần trăm so với mức 35 phần trăm cơ bản của thời gian.77
Vượt xa việc xác lập của sự tồn tại của tính dễ biến động cao, Shiller cũng kiểm tra những nguyên nhân có thể. Trong Irrational Exuberance (1999), ông kiểm tra những tin tức về sự sôi sục của thị trường cổ phiếu những năm 1990 và giải thích tại sao ý tưởng về một "thời đại mới" ở cả thị trường tại chính và nền kinh tế thực sự được phổ biến rộng rãi. Khi giá cổ phiếu tăng, mantra của "nền kinh tế mới" được chuyển từ người này sang người khác, các nhà đầu tư cá nhân hành động theo quan điểm của giới truyền thông, giới truyền thông luôn luôn khuếch đại ảnh hưởng của những quy tắc kinh tế cơ bản như là internet lên năng suất. Những ảo tưởng về thị trường cổ phiếu như thế rất phổ biến; chúng xảy ra ở rất nhiều nước khác nhau và thường qua một quá trình lịch sử.
Thực chất, bản ghi chép của Kindleberger về chứng cuồng loạn và hoang mang và lịch sử của Galbraith về tác phẩm Great Crash năm 1929 được coi như là một tác phẩm tiền nhiệm xuất sắc sau Irrational Exuberance
Thực chất, bản tường trình về chứng điên cuồng và thần kinh không ổn định của Kindleberger và lịch sử của tác phẩm Great Crash của Galbraith vào năm 1929 là tác phẩm tiền nhiệm lỗi lạc trước tác phẩm Irrational Exuberance. Chuyên đề thứ hai theo kinh nghiệm chỉ ra rằng những nghi ngờ về tính hợp lý của thị trường cổ phiếu vẫn là một câu hỏi khó trả lời về lợi tức cổ phần . Trong suốt hai trăm năm qua, lợi tức trên cổ phần cao hơn đáng kể so với lợi tức của trái phiếu. Ví dụ, từ năm 1802 tới năm 1998 lợi tức thực tế của chỉ số cổ phần thị trường là 7.0 phần trăm so với 2.9 phần trăm đối với một sự đảm bảo tương đối an toàn. 78 Trong suốt 75 năm qua, từ năm 1926 tới năm 2000, lợi tức thực tế là 8.7 phần trăm đối với cổ phần trái ngược lại với 0.7 phần trăm đối với trái phiếu, một khoảng cách là 8.0 phần trăm.
Khoảng cách này rất lớn: Siegel và Thaler (1998) tính toán rằng một sự đầu tư $ 1,000 thực hiện cách đây 75 năm sẽ sinh lợi lên tới $12,400 đối với trái phiếu và $884,000 đối với cổ phần. Khoảng cách này quá lớn tới mức sự bác bỏ hợp lý là một món súp vịt: Cùng với việc tăng lợi nhuận tới tột cùng, lợi nhuận cận biên của tiêu dùng ngày nay nên bằng với lợi nhuận phụ thêm mong đợi ngày mai từ những dữ liệu của ngày hôm nay. Điều kiện này ngụ ý nói rằng tiền lãi cổ phần nên bằng với tích số của hệ số rủi ro và hiệp phương sai giữa sự tăng trưởng của tiêu dùng và lợi tức lên giá cổ phần. Tuy nhiên, đối với một vài giá trị của hệ số rủi ro, tích số này nhỏ hơn rất nhiều so với lợi nhuận cổ phần, vì thế nó đã loại bỏ hành vi tiêu dùng theo lý trí. Sự loại bỏ này được biết tới như là một câu đố về lợi nhuận của cổ phần. 79
Một bằng chứng khác về tính không hợp lý của giá cổ phần lấy từ dữ liệu phân tích chéo. Cũng giống với việc tìm ra chuỗi dữ liệu theo thời gian của Shiller về tình không ổn định dư thừa gắn liền với nghịch đảo số trung bình của tỉ số giá cả/tiền lãi cổ phần, De Bondt và Thaler (1987) đã tìm ra nghịc đảo số trung bình của tiền lãi cổ phần theo cách phân tích chéo: một danh mục vốn đầu tư được tạo bởi 50 người chiến thắng cao nhất cách đây năm năm góp phần không nhỏ giới thiệu nên chỉ số trung bình thị trường, trong khi đó, danh mục vốn đầu tư của 50 người thất bại thảm hại lại có ích hơn là chỉ số thị trường. Những sự việc bất bình thường khác trong thị trường cổ phiếu, như là việc giá cổ phần giảm 20% chỉ trong một ngày vào tháng Mười năm 1987 khi thiếu những thông tin quan trọng cũng khiến cho moi người nghi ngờ về giả thuyết thị trường hiệu quả. 80
Tài sản không chỉ là quan trọng vì lợi ích của chính nó, chúng còn quan trong bời vì chunggs ảnh hưởng tới nền kinh tế vĩ mô, thông qua ít nhất là ba kênh.
Đầu tiên, giá trị của của cải ảnh hưởng tới sự giàu có, và vì thế ảnh hưởng tới tiêu dùng.
Thứ hai, giá của của cải đang hiện hành liên quan tới giá của tư bản mới - chỉ số q của Tobin - ảnh hưởng tới đầu tư vì đầu tư có thể coi như là một sự buôn chứng khoán giữa vốn cổ phần mới và những tuyên bố đối với những tài sản hiện hành tương đương. 81
Cuối cùng, giá trị tài sản ảnh hưởng tới những may rủi mà các công ty có thể phá sản. Những công tư gần tới ngưỡng phá sản nhận thấy thật sự khó khăn, nếu không muốn nói là không thể, mượn tiền, và vì vậy thường tìm trước những cơ hội đầu tư mang lại lợi nhuận cao. 82

 Kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi và hành vi kinh tế vĩ mô PHẦN 3

SỰ NGHÈO KHỔ VÀ TÍNH ĐỒNG NHẤT
Nếu sự phân phối thu nhập là một chủ đề trong kinh tế học vĩ mô, như là nhiều người đã thừa nhận, thì kinh tế học dựa trên hành vi cũng đưa ra những hiểu biết thấu đáo về những vấn đề kinh tế vĩ mô vẫn đang tồn tại suốt một thời gian dài mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt: sự chênh lệch trong thu nhập và điều kiện xã hội giữa mật độ người da trắng chiếm đa số và người gốc Phi chiếm thiểu số. Khi tài sản kế thừa là cả chế độ chiếm hữu nô lệ và sự phân biệt chủng tộc đối với người Mỹ da đen thì cảnh nghèo nàn vẫn đè nặng lên những người Mỹ gốc Phi.
Tỉ lệ nghèo nàn của người Mỹ gốc Phi là 23.6 phần trăm vào năm 2000 gần gấp ba tỉ lệ của người da trắng là 7.7 83. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 1/8 dân số nhưng những người Mỹ gốc Phi lại chiếm gần 1/ 4 hộ nghèo của tất cả Hoa Kỳ. 84 Thực tế còn khác hơn rất nhiều so với những gì con số thống kê này đưa ra bởi vì vấn đề của những người Mỹ gốc Phi nghèo nhất này không đơn thuần chỉ là cảnh nghèo túng. Chúng còn bao gồm sự tăng cao mạnh mẽ trong tỉ lệ tội phạm, ma tuý, nghiện rượu, chửa hoang, hộ gia đình chỉ có phụ nữ làm chủ và sống dựa vào tiền trợ cấp. Những con số thống kề về tình trạng tù tội chỉ ra rằng những vần đề này ảnh hưởng tới một phần đáng kể trong bộ phận những người Mỹ gốc Phi. Ví dụ như, khoảng 4.5 phần trăm đàn ông da đen đang bị bỏ tù. 85 Tỉ lệ đàn ông da đen phải vào tù cao hơn tỉ lệ này ở người da trắng theo một hệ số là tám trên một. 86 Và những rủi ro trong đời của một người đàn ông trẻ tuổi da đen phải vào tù lên tới 1/ 4. 87
Theo quan điểm của chúng tôi, vì lý thuyết kinh tế chuẩn mực có thể giải thích cho hành vi tự huỷ diệt như vậy nên Rachel Kranton và tôi đã phát triển những mô hình, dựa vào quan sát xã hội và tâm lý để hiểu những bất lợi dai dẳng của người Mỹ gốc Phi. Lý thuyết của chúng tôi nhấn mạnh vai trò của tính đồng nhất và những quyết định do từng cá nhân đưa ra về việc họ muốn là ai. Theo lý thuyết của về cảnh nghèo túng của những người thiểu số, những tầng lớp và chủng tộc trong xã hội bị tước quyền sở hữu phải đối mặt với một sự lựa chọn Hobbesian.
Một khả năng có thể xảy ra là lựa chọn một sự đồng nhất thích hợp với văn hoá vượt trội. Nhưng sự đồng nhất như vậy phù hợp với nhận thức rằng sự chấp nhận đầy đủ của tất cả các thành viên về văn hoá vượt trội là không thể xảy ra. Sự lựa chọn như thế cũng có thể làm hao tổn tâm trí đối với bản thân mình vì nó liên quan tới việc là một ai đó "khác"; gia đình và bạn bè, những người cũng ở bên ngoài văn hoá vượt trội cũng có thể có những quan điểm tiêu cực đối với một người không theo quy tắc của tổ chức. Vì vậy, những cá nhân có thể cảm thấy rằng họ không thể "vượt qua" một cách đầy đủ.
Mỗi một sự đồng nhất đều có liên quan tới những quy định cho hành vi lý tưởng. Trong trường hợp tính đồng nhất đối lập lại, những quy định này thường được định nghĩa dưới dạng những gì không phải la văn hoá vượt trội. Vì những qui định của văn hoá vượt trội xác nhận "tính tự thi hành", những điều trong văn hoá đối lập lại thường mang tính tự huỷ diệt. tính đồng nhất của văn hoá đối lập có thể dễ dàng hơn trong cái tôi bản ngã, nhưng cũng có thể làm suy yếu về mặt kinh tế và thân thể.
Lý thuyết dựa trên tính đồng nhất về sự bất lợi phù hợp với mọi bằng chứng. Ví dụ, nó đã tìm ra được những nghiên cứu bởi những tác giả như là Anderson (1990), Clark (1965), Du Bois (1965), Fraizier (1957), Hannerz (1969), Rainwater (1970), và Wilson (1987, 1996). Đọc bất kỳ tiểu sử nào của một người Mỹ gốc Phi nào: vũ điệu không thoải mái giữa chấp nhận và phản bác luôn luôn giữ vị trí trung tâm sân khấu.
Lý thuyết đồng nhất về tình trạng nghèo khó của những người thiểu số có những quan hệ mật thiết với chính sách xã hội đi trệch từ những điều bắt nguồn từ lý thuyết tân cổ điển chuẩn mực. Ví dụ, lý thuyết kinh tế chuẩn mực về tình trạng tội phạm và trừng phạt hoàn toàn dùng lý lẽ để biện hộ cho sự ngăn cản việc chiến đấu chống lại tội ác: hãy đẩy nguyên tắc lên thật cao, như bang California đã từng làm cùng với điều luật "ba nguyên tắc hoặc bạn sẽ bị tống cổ ra ngoài", và kẻ phạm tội đang có mưu đồ sẽ phải nghĩ lại. Nhưng những nhà tù đã đầy mà tình hình phạm tội vẫn không dừng lại. Trái lại, một lý thuyết dựa trên tính đồng nhất cho rằng tình trạng bỏ tù gây nên những ảnh hưởng tiêu cực bên ngoài có thể bù đắp cho những lợi ích ngắn hạn từ việc ngăn cản hành động phạm tội thông qua những chính sách bỏ tù khắc nghiệt hơn. 88 Chính bản thân nhà tù là một trường học cho sự đồng nhất đa văn hoá, và vì vậy là mảnh đất gieo hạt cho những tội ác tương lại.
Hơn thế nữa, tình trạng bên ngoài trong việc hình thành sự đồng nhất dùng lý lẽ để biện hộ cho những chương trình để làm giảm tình trạng phạm tội trước khi nó xảy ra. Ví dụ, những điều này bao gồm cả những chương trình điều trị và phục hồi cho những người nghiện ma tuý nặng và chương trình việc làm công cộng cho giới trẻ trong thành phố. Lý thuyết đồng nhất cho rằng những lợi ích của việc tăng chi phí cho các trường học của người Mỹ gốc Phi vùng lân cận với tỉ lệ nghèo đói cao rất thực tế và có hiệu quả: Trẻ em Mỹ gốc Phi được nhận thấy là đã hưởng ứng một cách đặc biệt với sự thay đổi trong chất lượng giáo viên và quy mô của lớp học. 89 Trường có thể nhận giáo viên đặc biệt và quan tâm tới từng vấn đề của sinh viên cùng với việc đưa ra chương trình giảng dạy chuẩn mực. 90 Cuối cùng, những cái bên ngoài liên quan tới việc hình thành sự đồng nhất giải thích cho hành động xác nhận, bởi nó là một dấu hiệu của việc đón chào những người Mỹ gốc Phi bước vào xã hội của những người da trắng, một xã hội đã từ chối họ rất lâu. 91
KẾT LUẬN
Đã ba mươi năm kể từ khi cuộc cách mạng trong lý thuyết tăng trưởng bắt đầu và sau đó lướt qua kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vĩ mô hiện đại là chuẩn mực trong tất cả những chương trình cao học, và chiếm một nửa trong chuỗi hai khoá học. Việc chấp nhận kinh tế học vĩ mô diễn ra chậm hơn, nhưng cuộc cách mạng cũng ảnh hưởng tới bộ môn này. Nếu có bất kỳ một vấn đề nào trong kinh tế học mang tính hành vi, đó chính là kinh tế vĩ mô. Tôi đã tranh luận trong bài thuyết trình này rằng sự trao đổi, tính công bằng, tính đồng nhất, ảo tưởng về tiền, ác cảm thất bại, tính tập hợp và sự trì hoãn giúp giải thích sự khởi hành của nền kinh tế trong thế giới thực từ mô hình cân bằng chung và mang tính cạnh tranh. Mối quan hệ theo quan điểm của tôi là kinh tế vĩ mô phải dựa trên những cân nhắc theo hành vi.
Tác phẩm Lý thuyết chung của Keynes là đóng góp lớn nhất cho kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi trước kỉ nguyên hiện tại. Hầu hết ở khắp mọi nơi Keynes đổ hết lỗi của những thất bại thị trường lên xu hướng tâm lý (như là ở trong tiêu dùng) và tính phi lý (như là trong sự đầu cơ tích trữ trong thị trường cổ phiếu). Ngay sau khi nó được phát hành, những người trong ngành kinh tế vĩ mô đã ngay lập tức quen thuộc với kinh tế học theo trường phái Keynes. Họ đã khai hoá nó khi họ dịch nó thành toán học "mềm mại" của kinh tế cổ điển. 92 Nhưng nền kinh tế, giống như sư tử, rất hoang dã và nguy hiểm. Kinh tế học hiện đại dựa trên hành vi phát hiện lại khía cạnh hoang dã của hành vi kinh tế vĩ mô. Những nhà kinh tế học dựa trên hành vi đang trở thành những người thuần phục sư tử. Nhiệm vụ này cũng thú vị về mặt tri thức nhưng cũng không kém phần khó khăn.
Tài Liệu Trích Dẫn
2 Tham khảo trang http://www.gibbsonline.com/gibbsbooks.html
3 Tham khảo Lucas và Sargent (1979).
4 Hầu hết những câu hỏi rắc rối này đều không được nghiên cứu vào thời gian đó, chúng gắn liền với văn học nhưng cũng không có cuộc thảo luận nào về chúng. Có lẽ chương trình nghiên cứu hiệu quả nhất của kinh tế vĩ mô trong suốt những năm 60 là sự phát triển của mô hình toán kinh tế vĩ mô. Những mô hình nghiên cứu về sự thất nghiệp của Phelps và một số người khác (1970) xuất hiện vào cuối những năm 60 để trả lời một câu hỏi: Ý nghĩa của sự thất nghiệp là gì? Nhưng họ lại chấp nhận trong khuôn khổ của sự thất nghiệp tự nhiên và tự nguyện.
5 Tôi đã bỏ sót hai câu hỏi quan trọng nhất mà những nền móng cơ sở nhỏ nhất của chúng được phát triển từ cuối những năm 60. Đầu tiên, tại sao tín dụng lại có thể được định mức? Donald Hodgman (1960, trang 258) đã làm sáng tỏ rằng lý thuyết kinh tế của đầu những năm 60 nhận ra rằng định mức tính dụng là một câu hỏi bí ẩn không thể giải thích được:
"Các nhà kinh tế học theo xu hướng phân tích thường miễn cưỡng chấp nhận [định mức tín dụng] tại giá trị bề ngoài bởi khó khăn của họ trong việc đưa ra một lời giải thích mang tính lý thuyết cho hiện tượng này, hiện tượng gắn liền với những nguyên lý của hành vi kinh tế vĩ mô dựa trên lý trí. Tại sao những người cho vay nên phân phối bằng phương pháp phi giá cả và như phủ nhận chính họ lợi ích của lợi tức cao hơn?". Ông quy những quan điểm này cho Paul Samuelson như đã được phát biểu tại quốc hội. Thông tin không đối xứng đưa ra một lý do tuyệt vời cho định mức tín dụng (Tham khảo thêm tài liệuJaffee and Russell (1976) and Stiglitz and Weiss (1981)).
6 Tham khảo Akerlof (1970)
7 Mishkin (1976) sau này đã phát triển những ý tưởng khuyến khích tôi tham gia vào khoá học này ngay từ ban đầu. Ông chỉ cho tôi biết tại sao nhu cầu cho xe ô tô lại không ổn định bởi vì ô tô là mặt hàng không dễ quy ra tiền mặt do thông tin không cân xứng.
8 Tham khảo Chamerlin (1962) và Robinson (1942).
9 Ví dụ, tôi có thể tưởng tượng một cách rõ ràng một sinh viên cao học không nhận thức được mô hình cạnh tranh không gian của Hotelling (1929). Tôi không thể nhớ chính xác được nó trong chương trình giảng dạy cao học nào nhưng tôi có thể nhớ rõ tìm thấy nó để lẫn trong phụ lục của tác phẩm Monopolistic Competition của Chamberlin
10 Khi nói chuyện với Michael Rothschild tại Cambridge, và Massachusetts, mùa hè năm 1969. Tôi vẫn còn nhớ cách sử dụng cũng như rất nhiều người ngày này nhớ tới lần đầu tiên họ nghe thấy ai đó nói họ sẽ "phát triển nền kinh tế".
11 Tôi không có ngày chính xác khi bài báo này được chấp nhận, nhưng tôi nhớ rằng mất khoảng hơn một năm giữa việc chấp nhận và xuất bản.
12 Tham khảo Solow (1959, 1962) và Arrow (1962).
13 Lý thuyết này phải đối mặt với một khó khăn trong lý thuyết. Vì tình trạng thất nghiệp chung hoàn toàn có thể quan sát được, những công nhân nên ước định những kỳ vọng của họ về sự phân bổ tiền lương phổ biến dựa trên tỷ lệ thất nghiệp chung. Việc ước định như vậy sẽ loại trừ ra mối tương quan liên hoàn khi thất nghiệp.
14 Câu hỏi này được đưa ra lần đầu bởi Tobin (1972). Đối với một vài dữ liệu về hành vi của những người bỏ việc, tham khảo Akerlof, Rose và Yellen (1988). Kenneth McLaughlin (1991) đã cố gắng thử hài hoà chu kỳ của những người bỏ việc với Kinh tế học Tân cổ điển như sau: Ông định nghĩa những người bỏ việc như là những người làm công bắt đầu quen với sự phân chia tiền lương, và coi việc giảm sản xuất như là việc công ty giảm tiền công. Trong mô hình của McLaughlin một sự tăng năng xuất theo hướng tích cực đột ngột có thể khiến cho các công nhân đòi hỏi tiền lương cao hơn. Vì một vài yêu cầu bị bác bỏ nên những người bỏ việc khi mà tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nhưng tại sao tiền lương của công ty lại châm trễ so với nhu cầu của công nhân trong khi họ đang đứng trước một sự tăng năng xuất đột ngột và tích cực?
15 Một kết luận xuất sắc và chính xác về vấn đề này đã được đưa ra bởi Yellen (1984).
16 Kết luận ở đây về mô hình người trong cuộc - người ngoài cuộc là nó đã đưa ra một sự giải thích đặc biệt khái quát về khái niệm của tiền lương hiệu quả.
17 Tham khảo Dunlop (1975)
18 Tham khảo Dickens và Katz (1987) và Krueger và Summers (1988). Chú ý rằng những nghiên cứu này là cho Hoa Kỳ vào một thời kỳ nhất định khi mà việc tổ chức thành công công đoàn là rất yếu; vì thế nó không phải là nhân tố chính trong sự chênh lệch về tiền lương. Ngược lại, sự chênh lệnh về tiền lương theo nghiên cứu của Dunlop có thể là lý do chính của sự chênh lệch trong sức mạnh đoàn kết.
19 Tham khảo Krueger và Summers (1988).
20 Tham khảo Katz (1986) và Blinder và Choi (1990). Blinder và Choi tìm ra một bằng chứng rất thuyết phục ủng hộ cho những yếu tố tinh thần khi trả lương cao cũng như những bằng chứng ủng hộ việc coi tiền lương hiệu quả như là một công cụ để đưa ra kỷ luật cho công nhân. Bewley (2000) kết luận rằng tình thần là một lý do quan trọng trong việc thất bại khi cắt giảm tiền lương. Campbell và Kamlani (1997) thì lại cho rằng yếu tố tính thần là một lý do chủ yếu để các công ty không cắt giảm tiền lương, nhưng vì vậy là mối quan tâm đối với những người bỏ việc bởi những công nhân tốt nhất.
21 Tham khảo Akerlof (1982) và Rabin (1993).
22 Tham khảo Akerlof và Yellen (1990) và Levine (1992).
23 Tham khảo Fehr, Kirchsteiger và Reidl (1993), Fehr và Falk (1999) và Fehr, Gachter và Kirchsteiger (1996).
24 Tham khảo Lindbeck và Snower (1988).
25 Tham khảo Roy (1952).
26 Tham khảo Shapiro và Stiglitz (1985) và Bowles (1985), Foster và Wan (1984) và Stoft (1982). Mô hình kỷ luật cho công nhân có được một phần nhỏ tính xác thực nhưng, như là toàn bộ giải thích cho thất nghiệp không cố ý, nó phải trải qua cả những khó khăn mang tính lý thuyết lẫn những khó khăn mang tính kinh nghiệm. Theo lý thuyết, trong những công việc mà sự giám sát không hoàn chỉnh và những công nhân có thể quyết định mức độ cố gắng của họ, những công ty có danh tiếng tốt có thể yêu cầu nhân viên của họ mua trái khoán. Những trái khoán này sẽ bị tước bỏ trong trường hợp người công nhân đó bị bắt quả tang đang trốn việc. Miền là họ vẫn còn được tuyển dụng trong công ty thì những công nhân sẽ được nhận lương tăng dần lên với tiền lãi của trái khoán, tiền vốn sẽ được trả lại khi họ nghỉ hưu.
Phương thức trả lương kiểu này đã giải quyết được vấn đề mà công ty đang mắc phải và rẻ hơn cho công ty so với cách trả lương hiệu quả thị trường bán sạch. Becker và Stigler (1974) đã đưa ra ý kiến chính xác này. Trong kế hoạch của họ thì công nhận sẽ được trả lại trái khoán khi anh ta bỏ việc một cách chính đáng. (Những cách khác để làm giảm tiền lương đối với thị trường sạch với tinh thần giống như vậy đã được chỉ ra bởi Carmichael (1985) và Murphy và Topel (1990). Theo kinh nghiệm, lý thuyết kỷ luật thất bại khi giải thích lý do tại sao sự chệnh lệch về tiền lương trong các ngành kinh doanh lại liên quan chặt chẽ tới nghề nghiệp, một vài ngành kinh doanh có thể tạo cho công nhân "những việc làm tốt" trong tất cả mọi ngành nghề, bao gồm cả những công việc có ít cơ hội chốn việc. (Tham khảo Dickens và Katz (1987). )
27 Logíc này đã được giải thích một cách rõ ràng bởi Patinkin (1956)
28 Tham khảo Nisbett và Ross (1980).
29 Trong ngữ cảnh này, bậc hai là đại diện của toán học mang ý nghĩa nhỏ. Tương tự như vậy, bậc một theo khái niệm toán học có nghĩa là đáng kể trong kích cỡ.
30 Tham khảo Akerlof và Yellen (1985a, b), Mankiw (1985), Parkin (1986) và Blanchard và Kiyotaki (1987).
31 Kết quả giống nhau đã tổ chức một số cơ cấu thay phiên nhau. Ví dụ, nếu các công ty thiết lập mức lương hiệu quả tối ưu hoá lợi nhuận, sự ổn định của tiền lương danh nghĩa là một hình thái của hành vi theo quy tắc tự đặt với những kết quả giống nhau: những mất mát đối với các công ty giữ cho lương ổn định là rất nhỏ, nhưng những cú sốc đối với cung tiền tệ thay đổi biến số thực một lượng nhỏ. Trong công thức của Mankiw, "phí tổn" nhỏ, những phí tổn cố định khi thay đổi giá cả, hạn chế việc giá cả thay đổi với tác động lên sản lượng cân bằng.
32 Tham khảo Carlton (1986)
33 Tham khảo Akerlof (1969), Fischer (1977) và Taylor (1979)
34 Tham khảo Calvo (1983)
35 Tham khảo Barro (1977) cho những lời phàn nàn về mô hình giao kèo so le.
36 Tham khảo Akerlof và Yellen (1991). Nói một cách nghiêm túc, nó chỉ ra rằng độ lớn của chu kỳ kinh doanh, như đã được đo bởi độ lệch chuẩn của thu nhập tăng dần lên nhờ có khế ước so le của Taylor một số lượng tỷ lệ với độ lệch chuẩn của sai số giá cả tạo nên bởi các công ty của Taylor. Chính sách tiền tệ có thể bù đắp lại tình trạng này của giá cả và làm giảm tính bất ổn của chu kỳ kinh doanh. Nhưng những thiệt hại của các công ty khi sử dụng bản khế ước so le của Taylor là rất ít: tỉ lệ với dao động của những cú sốc trong hệ thống. Theo nghĩa này, giá cả so le có ảnh hưởng lớn tới cả quy mô của chu kỳ kinh doanh và tính ổn định của chính sách tiền tệ. Nhưng hành vi phi tôi ưu hoá, hành vi này co phép chính sách tiền tệ làm cho nền kinh tế troẻ nên ổn định, đã đưa đến những thất bại tuy rằng rất nhỏ.
37 Ví dụ, Gregory Mankiw và Ricardo Reis (2001) đề xuất ý kiến là phản ứng của thu nhập đối với những cú sốc tiền tẹ được giải thích rõ ràng hơn bởi mô hình "theo lý trí" trong đó giá cả (và/hoặc tiền lương) đối phó lại rất chậm với những thông tin mới, những mô hình giá cả so le theo phong cách của Taylor/Calvo. Phản ứng chậm đối với những thông tin mới có thể xảy ra như là một kết quả của chi phí quản lý lớn liên quan tới thu thập, xử lý và phân bổ thông tin liên quan tới quá trình định giá. (Tham khảo Zbaracki và những người khác (2000), trích dẫn Mankiw và Reis.)
Công thức của Mankiw-Reis giải quyết ba nghịch lý có mặt trong những dự tính theo lý trí của các mô hình giá cả so le. Thông tin chắc chắn đã đưa ra phản ứng của thu nhập trước những thay đổi trong chính sách tiền tệ (Friedman (1948) và Romer và Romer (1989)); nó phù hợp với sự phản ứng chậm chạp đáng ngạc nhiên đối với những đột biến tìm được trong bản đánh giá của Phillips Curvess (Gordon (1997)); và nó đã không nhận ra sai lầm theo lý thuyết trong những kỳ vọng theo lý trí theo mô hình khế ước so le của những chính sách giảm phát dẫn tới việc tăng, chứ không phải giảm trong sản lượng (Ball (1994)).
Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng sự kết hợp những vấn đề liên quan tới việc tiến tới một đường cân bằng mới có thể ở bên ngoài cũng như bên trong của công ty. Fehr và Tyran (2001) tiến hành những thí nghiệm mà trong đó những người định giá được trả lương bắt nguồn từ mô hình theo lý trí với sự cạnh tranh độc quyền. Họ nhận ra rằng những thay đổi mang tính tiêu cực trong cung tiền tệ làm sản lượng giảm một cách đáng kể khi tiền lương được gọi tên theo danh nghĩa. Những chủ thể đóng vai trò như là những người định giá phải chịu đựng vấn đề ảo ảnh tiền, khiến cho họ miễn cưỡng phải cắt giảm giá cả.
Một hướng giải quyết cho sự độc lập của chính sách tiền tệ về vấn đề liên kết những thất bại là hoàn toàn tuyệt đối trong Howitt và Clower (2000)). Nghiên cứu này đề xuất rằng phản ứng của giá cả đối với sự thay đổi trong cung tiền tệ bao gồm sự hình thành kỳ vọng liên quan tới sự phản ứng lại của những người định giá khác đối với những đột biến giống như vậy. Thí nghiệm của Fehr và Tyran (2001) chỉ ra vấn đề khác của hành vi theo lý trí: những người đặt giá có thể làm giá cả tăng tới tột cùng, nhưng phải thừa nhận rằng những công ti khác theo hành vi định giá theo quy tắc tự đặt. Một lần nữa, chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc thay đổi sản lượng và việc làm.
38 Tham khảo Lucas (1972)
39 Tham khảo Phillips (1958) và Lipsey (1960).
40 Tham khảo Gordon (1970) và Perry (1970) cho một vài đánh giá đầu tiên tại Hoa Kỳ.
41 Để đưa ra một lý do, Flanagan, Soskice và Ulman (1983) đánh giá đường cong Phillps cho rất nhiều nước khác nhau.
42 Lời giải thích khác này được đưa ra bởi Eckstein và Brinner (1972), nhưng không đưa được nó thành xu hướng chủ đạo.
43 Ở đây chúng ta nên chú ý tới lời chỉ trích của Sargent (1971) mà hệ số của lạm phát trễ sẽ không bằng 1 trong một mô hình nếu quá trình phát sinh lạm phát ổn định mà không cần bắt nguồn từ một khối thống nhất.
44 Chúng ta sẽ nhận thấy một ví dụ về xu hướng đó khi chúng ta xem xét lại lý thuyết của Summer về việc chấp nhận giả thuyết bước ngẫu nhiên dựa trên thất bại khi bác bỏ bởi những cuộc sát hạch với sức mạnh rất nhỏ phản đối lại giả thuyết thay thế.
45 Sự cố lạm phát tăng nhanh cùng với mức thất nghiệp thấp trong một thời gian dài là một dự đoán của lý thuyết. Việc lạm phát thường xuyên tăng rất nhanh dường như ủng hộ lý thuyết. Nhưng việc lạm phát tăng nhanh như thế này xảy ra khi chính phủ đánh mất uy tín trong vấn đề tài chính (và chỉ có thể trả số tiền thiếu hụt của họ bằng thuế). Điều này có thể là sự mất uy tín tài chính, không phải là để giữ mức thất nghiệp thấp, và chính vì thế lạm phát tăng rất nhanh.
46 Quan sát dựa vào Pierre Fortin trong Fortin, Akerlof, Dickens và Perry (2001)
47 Tham khảo Fortin (1995, 1996)
48 Tham khảo Bewley (1999)
49 Tham khảo Lebow, Saks và Wilson (1999)
50 Tham khảo Fehr và Goette (2000)
51 Xem Tobin (1972).
52 Xem Akerlof, Dickens và Perry (1996)
53 Điều này bị gây ra bởi làm sự tăng liên tục của làm phát giả của giai đoạn trước dẫn tới sự kỳ vọng lạm phát trong giai đoạn tiếp theo. Điều này xảy ra trùng hợp tới mức dường như yếu tố may mắn cũng đóng một vai trò trong quá trình này.
54 Mức lạm phát trong quá khứ được đưa vào trực tiếp vì việc thoả thuận tiền công cũng dựa trên mức tiền công đưa ra bởi các đối thủ cạnh tranh.
55 Xem Akerlof, Dickens và Perry (2000)
56 Công thức này cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm của quần chúng về lạm phát. Shiller (1997a, 1997b) đưa ra sự khác nhau giữa khung suy nghĩ của quần chúng nhân dân và các nhà kinh tế học dựa trên kết quả của các phiếu điều tra.
57 Tuy nhiên, một không nhất thiết phải là con số kỳ diệu của các kỳ trước được Sargent ghi nhận (1971).
58 Những phép hồi quy này giải quyết những vấn đề mà Sargent đưa ra rằng mô hình tỉ lệ tự nhiên tạo ra những hệ số về lạm phát kỳ vọng tỉ lệ với tỉ lệ cung tiền, và những hệ số này không cần thiết phải ngang bằng với sự thống nhất. Nếu những kỳ vọng được quan sát chính xác, các hệ số về lạm phát kỳ vọng với tỉ lệ tự nhiên phải thống nhất. Sai sót trong số liệu liên quan tới kỳ vọng sẽ hướng các hệ số giảm xuống, nhưng nó không, theo như quan sát, dẫn tới những thay đổi trong hệ số trừ phi có những thay đổi trong lỗi quan sát giữa các thời kỳ làm phát ở mức cao và thấp.
59 3.8 phần trăm từ năm 1990 tới 1999, theo như Báo Cáo Kinh Tế của Tổng Thống năm 2000, bẳng B-107.
60 Xem Nisbett và Ross (1980). Quyển sách này là một trong những tác phẩm hàng đầu về tâm lý của kinh tế vĩ mỗ dựa trên hành vi. Rõ ràng là các nhà khoa học nghiên cứu về nhận thức tâm lý có nên tảng kinh nghiệm vững chắc hơn cho những giả thuyết của họ hơn các nhà kinh tế.
61 Engen, Gale và Uccello (1999, trang 97) đưa ra một kết luận ngược lại. Họ so sánh tài sản thực sự với những tài sản bắt nguồn từ mô hình chủ nghĩa lạc quan xác định. Mô hình xác định mà họ mong muốn có tỉ số sở thich theo thời gian là 3 phần trăm. Theo như số liệu từ cuộc điều tra Y Tế và Hưu Chí tại Mỹ với một định nghĩa rộng về của cải bao gồm sự công bằng của tất cả gia đình, 60.5 phần trăm các hộ gia đình có nhiều hơn mức trung bình tối ưu về tài sản trong mô hình xác định. Nhưng tôi muốn tập trung vào kết quả khác thu được từ những sự mô phỏng của họ. Nếu chúng ta loại yếu tố đầu tư cân bằng trong gia đình khỏi vốn tài chính có thể tiêu được, và giá sử rằng tỉ giá bằng không của triết khấu thời gian, chỉ 29.9 các hộ gia đình tới độ tuổi trước nghỉ hưu là 60 hoặc 61 tuỏi có tài sản ở mức trung bình tối ưu cho những người ở độ tuổi của họ (trang 99, bẳng 5). Giống như những người thăm gia tranh luận, cả về lý do kinh nghiệm và thời kỳ, tôi cho rằng tỉ giả bằng không của chiết khấu chính xác hơn. Điều này tuân theo sở thích của con người về việc tỉ lệ tiêu dùng không giảm ở mức lãi suất bằng không (xem phía dưới) và nó đánh giá độ thoả dụng ở các độ tuổi khác nhau dựa trên quy luật một đổi một. Việc tôi lựa chọn loại bỏ vốn cân bằng gia đình chứng tỏ rằng những người về hưu không bán nhà vì những lý do tài chính hoặc thế chấp nhà khi họ về già.
62 Bản từ điển Bách Khoa Anh năm 1946 của tôi miêu tả thực tế về cuộc hành quân của những con lemmut mà " không bao giờ dừng lại cho tới khi chúng tới biển, nơi chúng sẽ nhảy xuống và bị nhấn chìm."
63 Sự khác nhau này được đưa ra trong Laibson (1999).
64 Xem Engen, Gale và Uccello (1999, trang 157-8).
65 Xem Barsky, Kimball, Juster, and Shapiro (1997, trang 34).
66 Xem Laibson (1997), Laibson, Repetto và Tobacman (1998), Strotz (1956), Phelps and Pollak (1968), Loewenstein and Prelec (1992), and Ainslie (1992). Trong tác phẩm của Akerlof (1991) Tôi thấy đáng tiếc vì mình nhận thấy những công trình nghiên cứu trước đó về sự mâu thuẫn theo thời gian. Trong ngành kinh tế, điều này bao gồm includes Strotz (1956), Phelps và Pollak (1968), Thaler (1981), và Loewenstein (1987). Loewenstein và Thaler (1989) đưa ra một bản tổng kết xuất sắc về sự mâu thuẫn động bao gồm những thí nghiệm và học thuyết tâm lý. Xem Ainslie (1992).
67 Xem Madrian và Shea (2001).
68 Xem Bernheim, Skinner và Weinberg (2001) và Banks, Blundell, và Tanner (1998).
69 Những sự suy giảm như vậy có thể xảy ra nếu nghỉ hưu đi liền với những cú sốc do thu nhập thấp. Bernheim, Skinner, và Weinberg (2001, trang 854) cho rằng sự thay đổi như vậy là rất nhỏ.
72 Tất nhiên những người nghỉ hưu có nhiều thú vui và vì vậy một người có thể kỳ vọng mức tiêu dùng giảm đi vì những thú vui mới thay thế cho việc tiêu dùng. Điều này không phải dễ dàng nhưng có thể thực hiện được, thêm vào đó, để giải thích tại sao sự thay thế như vậy đa dạng một cách hệ thống với mức giàu có và với tỉ số thay thế doanh thu. Điều này có thể xảy ra nếu những người có những thị hiếu nhất định với các hoạt động giải trí khi nghỉ hưu có tỉ số thay thế doanh thu cao và đã tích luỹ được những khoản tiết kiệm lớn.
71 Từ 4.4 phần trăm tới 8.7 phần trăm. Hành vi này cũng được giải thích bằng lý thuyết viễn cảnh của Kahneman v Tversky (1979). Theo lý thuyết này, cơ cấu của quá trình đưa ra quyết định là quan trọng và mọi người thường chống lại việc thua lỗ. Trong bối cảnh này, người làm công không muốn giảm mức tiêu dùng.
72 Keynes (1936, p. 156).
73 Ví dụ, lấy từ một sự phân phối thông thường, việc dự báo đã đem lại một độ lệch bình phương nhỏ nhất giữa lần rút thăm thực sự và dự đoán là số trung bình của sự phân phối, đây là hằng số và không có dao động.
74 Ông đã ngoại suy cổ tức tương lai gấp nhiều lần so với trước những quan sát trước kia của ông. Tham khảo thử nghiệm tương tự của LeRoy và Porter (1981).
75 Tham khảo Campbell và Shiller (1987). Mặc dù tác phẩm tour de force của Shiller ban đầu dường như đã nắm bắt được tình thế, nhưng tác phẩm này đã gặp phải hai vấn đề khó khăn về kỹ thuật. Vấn đề đầu tiên là nó đã giới thiệu một độ lệch mới vào quy trình của Shiller: cả chuỗi giá cổ phiếu lẫn tiền lãi cổ phần đều không ổn định và một chuỗi không ổn định thậm chí không tạo nên một dao động nào. Vấn đề thứ hai liên quan tới sự ngắn gọn trong ví dụ của Shiller và phép ngoại suy của ông về tiền lãi cổ tức tương lai. Allen Kleidon (1986) chỉ ra trong dữ liệu mô phỏng rằng sự khác nhau giữa những dao động trong giá cổ phiếu của Shiller và trong chuỗi cổ tức không đủ lớn loại bỏ một cách dứt khoát những giả thuyết thị trường không có hiệu quả khi tiền lãi theo bước ngẫu nhiên. Thử nghiệm Campbell-Shiller chú ý tới sự không ổn định của giá cổ phiếu và cổ tức, với điều kiện là hai chuỗi phải hợp thành một thể thống nhất. Việc thử nghiệm này cũng rất hợp lý nếu các công ty giải quyết ổn thoả cổ tức.
Tính không ổn định của giá cổ phiếu cũng có thể được giải thích bằng vòng quay tần suất trong tỉ lệ thực sự của tiền lãi cổ phiếu. Nhưng chu kỳ đó mâu thuẫn với hầu hết những lý thuyết cổ điển tiêu chuẩn của nền kinh tế, nơi mà lãi suất thực tế được quyết định chủ yếu bởi tình trạng của khoa học kỹ thuật, và tỉ số vốn-sản lượng. Trong mô hình cổ điển tiêu chuẩn cả khoa học công nghệ và tỉ lệ vốn sản lượng thay đổi rất chậm.
76 Nơi mà không phải quan trọng theo ý nghĩa thống kê, mối tương quan đó dường như không hề quan trọng.
77 West (1988) chứng minh giống như vậy về sức mạnh yếu kém của thử nghiệm thị trường hiệu quả của Kleidon sử dụng dữ liệu của Shiller.
78 Tham khảo Mehra (2001)
79 Sự thử nghiệm này vẫn rất xuất sắc ngay cả khi nó bị bác bỏ, vì hầu hết các lý thuyết tiêu dùng, cho dù tăng đến tột cùng hay không, cũng sẽ đưa ra một mối tương quan đáng kể giữa tỉ lệ của tiền lãi cổ phần và tỉ lệ tăng trưởng tiêu dùng. Ví dụ, mối tương quan như vậy sẽ xảy ra nếu người tiêu dùng có một thói quen tiêu dùng chỉ đơn thuần phụ thuộc vào tài sản hiện có của họ, hoặc là nếu như tính lạc quan đó dẫn tới việc làm tăng lãi cổ phần trong thị trường cổ phiếu cũng đồng thời dẫn tới việc yêu thích mua sắm. Parker (2001) đề nghị một giải pháp khả thi khác về vấn đề tiền lãi cổ phần.
80 Tham khảo Romer (1993).
81 Tham khảo tài liệu về lý thuyết q, đặc biệt là bao gồm cả Tobin (1969), Abel (1982), Hayashi (1982) và Summer (1981).
82 Tham khảo Myers (1974), Jensen và Meckling (1976). Lamont (1995) chỉ ra tính cân bằng kép xảy ra như thế nào bởi sự độc lập như vậy.
83 Những người Tây Ba Nha cũng có một lịch sử về sự phân biệt chủng tộc giống như vậy nhưng ít khắc nghiệt hơn.
84 Tham khảo http://www.census.gov/Press-Release/www/2000/cb00-158.html
85 Vào năm 1996 có 530,140 tù nhân nam là người da đen và 213,100 người da đen không phải gốc Tây Ba Nha và 80,900 người tù gốc Tây Ba Nha ở cả hai giới. Có 462,500 nam và 55,800 nữ tù nhân. Ngoại suy tỉ lệ người da đen gốc Tây Ba Nha là .3 và tỉ lệ nam/nữ đối với người gốc Phi giống với người da trắng lên tới 211 814 người đàn ông gốc Phi vào tù năm 1996. Tỉ lệ đàn ông gốc Phi là khoảng 1/ 2 * (30 + .6* 4.7) triệu = 32.82/2 = 16.14 triệu. Kết quả ròng là khoảng 4.5 phần trăm trong tổng số đàn ông gốc Phi phải vào tù. Nguồn của tỉ lệ vào tù: Số dân vào tù của Hoa Kỳ năm 1996, Sở tư pháp Hoa Kỳ, Bảng 5.7, trang 82. Nguồn: http://www.census.gov/statab/www/part1a.html
88 Tham khảo Levitt (1996).
89 Tham khảo Ferguson (1998) về hiệu quả của chất lượng giáo viên và Krueger và Whitmore (1999) về hiệu quả của quy mô lớp học.
90 Tham khảo Delpit (1995)
91 Glenn Loury (1995) cho rằng hành động quả quyết cũng có thể có những ảnh hưởng đối ngược: nó có thể làm trầm trọng thêm cảm giác bị loại bỏ ra khỏi xã hội và khiến họ cảm thấy mình không được hưởng những gì mình đạt được.
92 Tham khảo Hicks (1927) và Patinkin (1956).


Nguồn: kinhtehoc.com