Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Chuyện lãi suất ngân hàng

BLOG CỦA L/S LÊ NHƯ HÀ NGÀY THỨ BA 27/11/2012

Tiếng nói của một thân chủ đang đối diện với phá sản ở miền Trung

Tác động của lãi suất trong kinh doanh

Rất nhiều doanh nghiệp đang chết dần chết mòn, họ không biết bấu víu vào đâu, họ đều nói nguyên nhân là từ năm 2010, các Ngân hàng thương mại tăng lãi suất, phí giao dịch, tiền bôi trơn, khiến doanh nghiệp mất vốn dần. Làm được đồng nào đều phải nộp cho ngân hàng. Khi thua lỗ họ lại vay tín dụng đen nộp cho các Ngân hàng để không bị đánh tụt nhóm tín dụng. Họ phải vay tín dụng đen để đảo nợ nhưng Ngân hàng không cho vay tiếp hoặc cho vay tiếp với mức vay thấp hơn. Cứ tháng này qua tháng khác họ lâm dần vào tình trạng nợ tín dụng đen, nợ Ngân hàng, không có tiền để nộp bảo hiểm, nộp thuế. Tóm lại doanh nghiệp phải chi phí quá sức. Làm ăn càng khó khăn doanh nghiệp càng mất vốn, sản xuất kinh doanh ngày càng bi đát.


Ngân hàng là môi giới cho tín dụng đen

Nhiều cán bộ tín dụng còn xui doanh nghiệp vay tín dụng đen để trả nợ Ngân hàng, thậm chí cán bộ Ngân hàng làm luôn “nghiệp vụ” tín dụng đen, có nhiều trường hợp cấu kết với xã hội đen để ép doanh nghiệp vay nặng lãi. Cán bộ Ngân hàng cố tình làm ngơ trước sự chịu đựng quá sức của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng tín dụng đen xiết nợ theo kiểu cưỡng đoạt tài sản, mất khả năng thanh khoản, không còn vốn hoạt động, doanh nghiệp chỉ còn biết kêu trời.

Ngân hàng không theo đúng luật

Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng quy định các bên có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí giao dịch theo quy định của pháp luật. Điều 476 Bộ luật dân sự quy định lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước công bố.

Trong năm 2010 Ngân hàng nhà nước công bố lãi suất cơ bản 7% có lúc 8% và kể từ tháng 12/2010 là lãi suất 9%/năm. Như vậy, dù thỏa thuận gì đi chăng nữa cũng không được phép vượt quá 150% của lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đi vay để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh rồi Ngân hàng thương mại mới bắt đầu tăng lãi suất. Luật các tổ chức tín dụng yêu cầu phải ghi rõ lãi suất vào hợp đồng tín dụng nhưng đa số các hợp đồng tín dụng đều ghi theo kiểu lãi suất tùy nghi với mục đích để tăng lãi suất cho dễ (hàng tháng thông báo lãi suất mới).

Rõ ràng việc cho vay với mức lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản là vi phạm điều cấm của pháp luật, mặc dù cả hai bên đều ký vào hợp đồng tín dụng.

Ngụy biện của ngân hàng

Để trả lời, phía cán bộ Ngân hàng thương mại cho rằng việc Ngân hàng thương mại cho vay theo lãi suất thỏa thuận tự do, không căn cứ theo lãi suất cơ bản bởi ba lý do sau: Thứ nhất, do pháp luật về ngân hàng quy định lãi suất cho vay là lãi suất thỏa thuận; Thứ hai, doanh nhiệp đã ký vào hợp đồng rồi thì phải chấp nhận; Thứ ba, vì Ngân hàng thương mại huy động vốn với lãi suất cao nên phải cho vay cao.

Ba lý do trên đều không chính đáng ở chỗ: Thứ nhất là không có bất cứ một điều khoản nào của pháp luật quy định cho phép Ngân hàng thương mại được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận mà bỏ qua “chiếc van” lãi suất cơ bản; Hai là hợp đồng tín dụng là một thỏa thuận dân sự và theo quy định của pháp luật dân sự thì không phải sự thỏa thuận nào cũng là hợp pháp, nó chỉ hợp pháp khi sự thỏa thuận ấy không trái pháp luật; Ba là việc Ngân hàng thương mại huy động vốn thực chất là hợp đồng vay tài sản (Ngân hàng thương mại vay của người khác) thì việc huy động vốn càng phải tuân theo pháp luật và huy động vốn với lãi suất cao hay thấp đó là câu chuyện nội bộ của Ngân hàng thương mại chứ không thể lấy lý do huy động vốn với lãi suất cao để giải thích với khách hàng là phải cho vay với lãi suất vượt khung pháp luật.

Lãi suất nào thì đúng luật?

Quay lại với vấn đề lãi suất, theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật các tổ chức tín dụng, rõ ràng hợp đồng tín dụng có lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản hoặc trong hợp đồng không ghi cụ thể mức lãi suất thì hợp đồng đó vô hiệu. Nội dung vô hiệu là nội dung về lãi suất, nó bị vô hiệu kể từ khi hai bên bị ký kết. Đối chiếu với Bộ luật dân sự thì Ngân hàng thương mại phải hoàn trả cho khách hàng toàn bộ số lãi và hai bên thỏa thuận lại mức lãi suất theo đúng quy định của pháp luật.

Có nhiều doanh nghiệp hỏi: Một là nhiều hợp đồng tín dụng đã thanh lý rồi thì sao? Hai là nếu Ngân hàng thương mại không đồng ý ngồi đàm phán lại vấn đề lãi suất liệu có khởi kiện được không? Theo quy định của pháp luật dân sự những nội dung của hợp đồng mà vô hiệu thì các bên phải thỏa thuận lại, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Đối với nội dung vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện không hạn chế, tức là có thể khởi kiện bất cứ lúc nào.

Trong lúc này các bên nên ngồi lại với nhau để thỏa thuận lại mức lãi suất đối với tất cả các hợp đồng tín dụng có lãi suất vượt quá khung pháp luật; tính toán giải trừ dư nợ cho doanh nghiệp số tiền chênh lệch. Tôi được biết có rất nhiều doanh nghiệp trong 3 năm qua đã nộp cho Ngân hàng thương mại hàng chục tỷ đồng số tiền lãi chênh lệch…

Đợi chờ Godot

November 27, 2012 By Alan Phan

T/S Alan Phan

Tôi nhớ năm đầu của đại học, trong môn Nghệ Thuật 101, tôi phải xem một vở kich của Samuel Beckett tựa đề là Waiting for Godot. Tóm lược của kịch bản là hai anh lãng tử dưới gốc cây xồi trọc lá, nói chuyện và tranh luận về đủ mọi đề tài trong khi đợi một người tên là Godot mà họ có hẹn.


Vài nhân vật khác cũng đi ngang chỗ đợi, tương tác cùng hai nhân vật chính, rất phức tạp và mâu thuẫn như trong một giấc mơ. Cuối cùng, Godot không bao giờ xuất hiện, vì có lẽ ông chỉ là một nhân vật tưởng tượng của hai anh lãng tử trên.

Vở kịch bắt đầu khoảng 10 phút là tôi quay ra ngủ ngon lành. Chuyện vớ vẩn của 2 anh “khùng” không liên quan gì đời sống hay cảm xúc của tôi. Ngược lại, con bé đi “date” cùng, có một mùi nước hoa nhè nhẹ như hoa lài cộng hưởng với mùi con gái vừa lớn. Cho nên khi đó, Godot thực đang ngồi cạnh tôi, đẹp tuyệt vời và những lời lảm nhảm trên sân khấu chỉ làm tôi khó chịu.

Ba năm sau, tôi tình cờ coi lại vở kịch. Hôm đó, tôi vừa thất tình, vừa bị cảm cúm, mệt ngất ngư nhưng không muốn nằm trên giường than thân trách phận. Lần này tôi có chút đồng cảm hơn với 2 chàng lãng tử. Họ loay hoay trong những hành động vô nghĩa và vớ vẩn vì chung quanh họ, từ môi trường đến những con người giao thoa đều thể hiện cái “hư không” trong nội tại của mình. Chúng ta ăn uống, suy nghĩ, đàm thoại, yêu ghét, làm việc, lo lắng…vì đây là những kỹ năng xã hội đã huấn luyện và trao trách cho chúng ta. Trong khi đó, chúng ta vẫn cứ hy vọng là Godot sẽ đến và sẽ đem một vài ý nghĩa gì đó cho cuộc sống. Dĩ nhiên, Godot (theo suy diễn là God hoặc idiot?) không bao giờ xuất hiện.

Beckett là một tác giả thuộc trường phái hiện sinh (existentialism). Cùng với Camus, Sartre, Kafka, Dostoyevsky,…các ông này luôn luôn ngồi trên tháp ngà của trí thức để suy ngẫm về những “phù du, ảo tưởng” của kiếp người. Những ngày cón là sinh viên, sách của các ông là gối đầu giường của tôi. Vả lại, những suy tưởng và túi khôn của các ông giúp anh sinh viên trẻ “làm dáng trí thức” và chiêu thức “cuộc sống vô nghĩa” cũng lôi kéo được khá nhiều bạn nữ lên giường.

Ra trường đời, tôi phải tạm quên các ông. Phải lao đầu vào việc mưu sinh để kiếm tiền nuôi vợ con, phải loay hoay bò mỗi ngày quanh miệng chén vì nợ nần ngập đầu không buông tay được. Khi khôn ra, lòng tham lại nặng hơn ý chí tự do; nhất là cảm nhận luôn bất an nhìn về tương lai khi sức khỏe và may mắn không còn. Thấm thía những bài học thời trẻ từ các ông, nhưng cuộc đời vẫn là một bẫy sập không ra được. Và cũng trong những loay hoay đó, tôi bắt đầu chờ Godot.

Tuy nhiên, tôi cũng cố gắng tìm niêm vui nhỏ nhặt mỗi ngày qua những trải nghiệm thần kỳ. Năm giác quan của tôi luôn được bung căng rồì thả lỏng, tâm hồn tôi được thử thách hàng ngày với những xấu xa tồi tệ của môi trường, nhưng sau đó lại được ôm ấp tận hưởng những giây phút thăng hoa của thiên nhiên và con người. Tôi cố quên đống rác bên đường, dù rất khó khăn, để chăm chú vào hàng phượng vĩ đang che bóng mát. Tôi bằng lòng và an phận với mâu thuẫn này.

Gần đây tôi hay về lại quê hương. Cái thân phận nhỏ bé và hèn kém của con người trong cái hư ảo của thế tục thể hiện rõ ràng hơn nơi đây. Dù muốn né trành, tôi bắt buộc phải suy ngẫm về những thứ lăng nhăng nhưng thực ra là cốt lõi của sự sống. Chúng ta có tạo được tương lai hay định mệnh đã an bài? Tại sao đêm đen cứ bao trùm một khu vực mà Ơn Trên đã ban cho một môi trường thiên nhiên vô cùng phong phú? Tại sao con người nơi đây rất mực thông minh mà bị “trù úm” liên tục bởi những thế lực ma quỷ?

Có lẽ rất nhiều người Việt đang mòn mỏi đợi chờ Godot? Trong cái hy vọng pha chút tuyệt vọng đó, bao nhiêu người đã tự hủy hoại bằng những cơn say xỉn mỗi đêm và những việc làm vô cảm mỗi ngày? Thế nhưng nhìn ở một góc cạnh khác, cái “hiện sinh” đau đớn trong môi trường sống này có thể tạo cho chúng ta những phản ứng, dù khác nhau nhưng luôn là một tầm gương soi lại bản ngã cùa chính mình.

Muốn thoát ra khỏi bẫy sập, nhiều bạn đã chọn lựa bỏ đi thật xa, mong tìm một thanh bình riêng biệt ở một góc trời lạ nào. Như con thú bỏ rừng để an phận sống trong một chuồng thú nhàn hạ? Nhiều bạn chọn sự phấn đấu, bằng cách chống lại hệ thống quyền lực dưới mọi hình thức nhưng có lẽ cũng không đem đến một kết quả gì như ý muốn. Khi đã bị lôi kéo vào cuộc tranh giành quyền lực thì các bạn cũng phải biến thể mình thành một loại thú rừng đủ răng nanh và móng nhọn để sinh tồn. Nhiều bạn thưc tế hơn, người Mỹ nói là “if you cannot fight them, join them” (không đấu nổi phe địch thì gia nhập họ vậy). Họ sẵn sàng “thượng đội hạ đạp” để tìm một chút cơm thừa cho mình và gia đình. Nhiều bạn khác thì chọn sự tự tử chậm…kết thúc đời mình bằng những ngày đêm trác táng và phá phách vô nghĩa.

Bất cứ lựa chọn nào cũng là một thảm kịch cho nội tâm những người còn cảm xúc trăn trở sống nơi đây. Nhất là các bạn trẻ. Tôi cũng vậy. Nhưng tôi may mắn hơn là vở kịch tôi diễn sắp hạ màn; Godot đã không đến như hẹn và tôi còn phải lên đường đi tìm vai diễn ở một vở kịch khác.

Tôi thầm nghĩ nếu Beckett sống ở Việt Nam vào thời này, chắc ông đã viết được một tác phẩm khác hay hơn. Và một kết cuộc “có hậu” như một phép lạ nào đó sẽ đem Godot đến với 90 triệu dân Việt?

Alan Phan

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Lại chuyện “người” và “ta”

November 22, 2012
Tác giả: Một nghiên cứu viên tại Học Viện Riken

Lời bàn của Alan Phan:

Bài này viết từ 2004 do một người Việt sống ở Nhật suốt 16 năm. 8 năm đã trôi qua và không gì thay đổi để thêm hay bớt. 8 năm hay 80 năm nữa sẽ đến. Tôi tin là mọi người sẽ rất buồn khi đọc lại bài viết này và không thấy cần “thêm” hay “bớt” điều gì.

Alan

Trước khi tới xứ sở của hoa anh đào, tôi đã sống 18 năm thời niên thiếu của mình rồi sau này làm việc vài năm tại Việt Nam, 11 năm tại Liên xô cũ, một thời gian tại châu Âu, và thăm một số trường đại học tại Hoa kỳ. Cuộc sống ở nhiều nước đã giúp tôi kiểm chứng trong một chừng mực nhất định độ tin cậy của câu ngạn ngữ tôi thường nghe thời còn là sinh viên tại Nga:

Ba năm đi Pháp bằng một giáp đi Nga.
Năm năm ở Tây bằng một giây ở Nhật.

Theo tôi, cái “may mắn” lớn nhất của thần dân xứ Phù Tang có lẽ là nước Nhật đã thua trong Đại chiến thứ Hai. Về mặt tâm lý, thất bại đó khiến người Nhật cảm thấy nhục nhã, và quyết tâm đưa dân tộc mình vươn lên về mọi mặt để “rửa hận”. Thất bại đó cũng khiến dân tộc Nhật trở nên khiêm tốn, nhún nhường hơn trong giao tiếp vì có lẽ họ không có “chiến thắng oanh liệt” nào để họ có thể “vênh váo” với thế giới, và quá khứ thê thảm của Đệ Nhị Thế Chiến không để lại gì để họ có thể trở thành “ăn mày dĩ vãng” [1]. Về chính trị, thất bại đó khiến nước Nhật ngay sau chiến tranh “bị” đặt dưới sự kiểm soát cuả Hoa kỳ. Từ đó Nhật bản được Hoa kỳ giúp đỡ về mọi mặt và trở thành đồng minh chặt chẽ của Hoa kỳ. Bản Hiến pháp của Nhật sau Đại chiến thứ Hai là do người Mỹ viết năm 1946 [2]. Đó là một bản hiến pháp hết sức dân chủ.Người Nhật, từ ông thủ tướng (và gia đình, họ hàng ông ta) đến cậu học sinh tiểu học, tất cả đều rất tôn trọng pháp luật và thực hiện đúng Hiến pháp. Đó là điều mấu chốt đưa đến những ưu điểm dưới đây:

1) Cuộc sống ở Nhật rất an toàn

Hồi còn đi học, tôi đọc sách thấy nói mô hình của xã hội giàu có thanh bình là thời vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, tiền rơi ngoài đường không có ai thèm nhặt. Lúc đó, tôi đã tự hỏi không biết bao giờ và ở đâu mới lại có được một xã hội như vậy. Nhật bản là câu trả lời khẳng định cho tôi. Ở đây, nếu đi tàu mà bạn vô tình quên túi (trong đó có thể có tiền, máy ảnh, điện thoại di động v.v.) trên tàu, bạn chỉ cần báo cho nhân viên nhà ga. Sau đó họ sẽ gọi điện nhắn bạn đến nhận vì thông thường là họ sẽ tìm thấy đồ bạn để quên, do không có ai đụng đến nó cả. Một lần chúng tôi đi tàu ra sân bay, sau khi chúng tôi lên tàu rồi, trong lúc chờ tàu khởi hành, bỗng một nhân viên nhà ga xuất hiện, tay giơ cao một cái túi và nói to đủ để tất cả hành khách đều nghe thấy: “Cái túi này của ai đây?”. Vợ tôi giật mình nhận ra đó chính là túi của mình để quên trên ghế phòng đợi tàu, vội chạy tới nhận, chỉ vài giây trước khi tàu chuyển bánh. Một lần khác, vợ tôi đi chợ và đánh rơi ví. Trong ví có tiền, giấy căn cước, chìa khóa nhà, v.v. Hai hôm sau, người gác cửa báo xuống nhận. Người nhặt được ví và mang đến trả tận nơi là một sinh viên. Con trai tôi có lần đi chơi cũng đánh rơi ví trong đó có thẻ học sinh và chìa khoá vào nhà. Mấy hôm sau, những thứ cháu đánh rơi đã được ai đó tìm thấy và gửi đến địa chỉ nhà tôi mà không đề địa chỉ người gửi. Năm 1999, chúng tôi tổ chức một hội thảo quốc tế tại viện nghiên cứu vật lý hóa học Nhật bản (gọi tắt là viện RIKEN) – nơi tôi làm việc từ 1995 tới nay. Một nhà vật lý Italia, đại biểu hội nghị, trong khi đi chơi ở Tokyo, đã đánh rơi hộ chiếu của mình. Anh ta hết sức hốt hoảng vì chỉ sau hai ngày anh ta sẽ phải bay về nước. Chúng tôi nói anh cứ yên trí, gọi điện báo cho Đại sứ quán Italia rồi ngồi chờ. Quả nhiên ngày hôm sau, Đại sứ quán Italia gọi điện nói có người đã nhặt được hộ chiếu của anh và gửi đến Đại sứ quán, anh chỉ việc đến nhận lại hộ chiếu. Anh ta thốt lên: “Thật là không thể tin được!”. Anh đã lên đường về nước đúng như lịch trình.

Mặc dù đôi khi đọc báo hay xem TV, tôi cũng thấy tin nói về các vụ kẻ trộm đột nhập nhà ở, kẻ cướp cướp nhà băng, kẻ cắp móc túi người say rượu trên các chuyến tàu vắng khách về khuya nhưng tôi chưa hề bị hoặc chứng kiến bất cứ một vụ ăn cắp vặt nào ở nơi công cộng tại Nhật, kể cả trên những chuyến tàu chật cứng người vào giờ đi làm sáng sớm. Mới đến Nhật, người ta có thể lấy làm lạ là mọi người ra đường để đồ đạc của mình rất hớ hênh: ví tiền bỏ túi sau không cài, nhô cả ra ngoài, điện thoại di động nhét túi sau với cả một đám dây trang trí như mời gọi kẻ móc túi, vào tiệm ăn thì vứt túi lên ghế rồi bỏ đấy đi nhà vệ sinh mà không hề sợ là túi sẽ “bốc hơi” lúc mình vắng mặt. Sau khi đã sống ở Nhật một thời gian, người ta hiểu rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra với những “sơ ý” đó vì xã hội ở đây rất an toàn. Hầu như không có ai động đến sở hữu của người khác. Đi chơi ban đêm mà bị trấn lột là chuyện khó xảy ra ở Tokyo.

Người Nhật không ồn ào, không nói chuyện oang oang hoặc gọi nhau í ới ngoài phố và tất nhiên là tôn trọng luật đi đường. Nếu họ chẳng may đụng phải nhau thì cả hai cùng cúi xuống xin lỗi nhau với một thái độ thực sự thành khẩn. Xe cộ rất nhiều nhưng hầu như không nghe thấy tiếng còi xe hơi. Nếu xe hơi hay xe máy quệt phải nhau thi họ cũng từ tốn dàn xếp hoặc chờ cảnh sát tới. Tôi có lần chứng kiến một xe hơi đi từ hẻm ra đường lớn, chẳng may đụng phải một thanh niên đang phóng xe máy phân khối lớn. May thay anh ta không việc gì vì nhảy vọt được ra khỏi xe như trong phim Holywood vậy. Chỉ có xe máy là bẹp. Người lái xe hơi chắc chắn là sai. Ngay cả khi đó, anh thanh niên, trông rất “ngầu” cũng không hề to tiếng. Cả hai bên để nguyên hiện trường chờ cảnh sát tới giải quyết.

2) Quan chức hành chính và cảnh sát thực sự là các đầy tớ của nhân dân

Điều 15 trong Hiến pháp của Nhật quy định “tất cả các quan chức và nhân viên hành chính là đầy tớ của toàn thể cộng đồng” [2]. Bộ máy hành chính của Nhật cũng khá cồng kềnh và mọi việc giấy tờ không phải khi nào cũng nhanh. Tuy nhiên, những quan chức và nhân viên hành chính bao giờ cũng cố gắng giải quyết công việc một cách tốt nhất cho dân với một thái độ rất lịch sự, niềm nở, kể cả khi “dân” là một cậu bé kém họ hai ba chục tuổi. Nếu không giải quyết được ngay ngày hôm đó thì họ bao giờ cũng hẹn chính xác ngày có kết quả và không bao giờ sai hẹn. Họ hiểu rất rõ là họ làm việc để phục vụ nhân dân. Lương của họ là do dân đóng thuế mà có. Bất cứ người dân nào cũng có thể phát đơn kiện nếu họ phục vụ kém và họ sẽ bị thải hồi ngay. Bất lịch sự, cửa quyền, sai hẹn chứ chưa nói “ăn hối lộ”, là điều xa lạ đối với hệ thống hành chính cơ sở ở đây. Không bao giờ có hiện tượng nhân viên hành chính lại dám “lên lớp” cho người dân.

Con trai tôi có lần thốt lên: “Công an ở Nhật hiền thật, bố nhỉ!”. Đấy là sau cái lần cháu đi chơi đánh mất chìa khoá xe đạp. Vì lúc đó đã muộn, các hiệu chữa xe đạp đã nghỉ nên cháu phải bê xe đến đồn cảnh sát gần đấy cầu cứu các chú cảnh sát. Họ phải dùng kìm cộng lực cắt khóa để cháu đạp xe về nhà. Nói chung, tôi chưa gặp trường hợp nào cảnh sát giao thông chặn người xét hỏi vô cớ giữa đường huống hồ là hành hung người dân. Họ luôn từ tốn, lịch sự chỉ đường kỹ càng khi được hỏi vì các đồn cảnh sát thông thường là nơi người đi đường vào hỏi đường. Họ có đầy đủ bản đồ chi tiết của khu vực họ. Chuyện cảnh sát tìm cách chặn xe để phạt tiền là chuyện không có ở Nhật. Người lái xe bị phạt nếu họ thật sự phạm luật, gây tai nạn, v.v. Cảnh sát Nhật không được phép dùng vũ khí nóng (như súng) để uy hiếp dân chúng. Trong những cuộc dẹp rối loạn trật tự công cộng, họ chỉ được dùng quá lắm là gậy bằng gỗ.

3) Khách hàng thực sự là vua

Ở Nhật người bán hàng hết sức lễ phép và thực sự chiều chuộng khách hàng, cho dù khách hàng chỉ xem, không mua gì hoặc giá trị của thứ mua chỉ vài trăm yên (vài USD). Không bao giờ người bán hàng nhận xét, bình phẩm về sự lựa chọn của khách hàng. Sau khi khách hàng mua, trả tiền xong, họ đều gói ghém hết sức cẩn thận trước khi trao hàng cho khách, sau đó chắp hai tay trước bụng cúi chào cung kính, mắt nhìn xuống. Nếu những người bán hàng đó đi mua hàng (đi chợ chẳng hạn), họ cũng là khách hàng như bạn và cũng được những người bán hàng khác phục vụ tử tế như vậy.

Ít lâu sau khi tôi vừa đến Nhật, một lần tôi ghé hiệu Yamano Music – một hiệu bán nhạc cụ nổi tiếng ở khu Ginza – Tokyo. Tại hiệu này có bán các đàn đại dương cầm Yamaha, Steinway, Bechstein giá hàng trăm ngàn US dollars. Nhưng thứ mà tôi mua chỉ là một miếng dạ đỏ để phủ phím đàn piano. Giá miếng dạ đó là 600 yen (khoảng 6 USD). Tôi gọi người bán hàng. Ông ta dạ ran chạy đến. Tôi lại không có tiền lẻ, nên tôi đưa ông ta 10,000 yen (khoảng 100 USD). Ông ta cúi người, hai tay đỡ lấy tờ tiền, nói: “Xin quý khách đợi cho một lát”, sau đó chạy nhanh vào phía trong. Một khoảnh khắc sau, ông ta quay lại, hai tay cầm một cái đĩa sứ nhỏ trên để miếng dạ đã được gói cẩn thận, hóa đơn thanh toán, tiền thừa. Rồi ông ta lại cung kính cúi mình hai tay nâng cái đĩa lên ngang mặt để tôi dễ lấy. Sau đó, ông ta lại cúi rạp xuống một lần nữa, miệng nói to: “Xin cảm tạ quý khách!”

Rất ấn tượng về điều này, tôi kể chuyện đó với một giáo sư Nhật. Ông ta nói: “Đấy là tiêu chuẩn phục vụ thông thường ở đây, nhất là tại các cửa hàng nổi tiếng như Yamano Music. Anh trả tiền và anh có quyền được hưởng sự phục vụ tốt nhất”. Sau này, tôi thấy đó là trình độ phục vụ rất chuyên nghiệp của xã hội Nhật bản, vượt xa tất cả các nước khác mà tôi đã đến (là Việt Nam quê hương tôi, Trung Hoa, Nga Xô, Ấn độ, Pháp, Đức, Hà Lan, Italia, Hy lạp, Tây Ban Nha, và Hoa kỳ).

Miếng dạ là thứ nhỏ. Bây giờ tôi kể đến thứ to hơn một chút. Cách đây vài năm, tôi mua một cái đàn đại dương cầm (grand piano) ghép kỹ thuật số gọi là GranTouch cuả hãng Yamaha, giá ngót nghét 6,000 USD (kể cả ghế ngồi). Sau khi đàn được vận chuyển đến nhà, tôi chơi vài hôm và phát hiện ra một trục trặc nhỏ là khi chơi một hợp âm nhiều nốt, độ vang của một hai nốt thỉnh thoảng bị cắt sớm hơn các nốt khác. Tôi gọi điện phàn nàn với cửa hàng. Sau vài hôm, hãng Yamaha cử chuyên gia tới nhà tôi dùng máy để kiểm tra vì hiện tượng này rất khó phát hiện và không phải lúc nào cũng xảy ra. Sau khi xác nhận là có trục trặc thật, họ vận chuyển một cái đàn khác, cũng mới tinh đến, để cạnh cái đàn kia để tôi chơi cả hai để so sánh. Sau một hồi đắn đo, tôi đã chọn cái đàn họ mới mang đến. Họ lại vui vẻ đem cái đàn kia đi. Mỗi lần vận chuyển như vậy, xe cần trục phải trục cả cái đàn to tướng lơ lửng qua bao-lơn nhà (balcony). Một tốp gồm ba người đàn ông lực lưỡng và một chuyên gia kỹ thuật cùng làm việc. Tôi không phải trả thêm bất cứ một yen nào. Thấy họ lao động vất vả, tôi mời họ uống nước giải khát. Họ lễ phép từ chối với lý do là họ đang làm công vụ.

Vợ tôi luôn cảm kích mỗi khi nhớ lại lần phải nằm bệnh viện nhà nuớc (công) ở Nhật. Tất cả mọi người – từ bác sỹ, y tá, hộ lý đến nhân viên phục vụ, quét dọn – đều rất lịch sự, dịu dàng, quan tâm chăm sóc như thể cả bệnh viện chỉ có mỗi một mình vợ tôi là bệnh nhân vậy khiến vợ tôi nói: “Mình thật sự cảm thấy mình là một con người với ý nghĩa đầy đủ của nó.” Máy móc ở bệnh viện đều rất tối tân. Phần lớn các bác sỹ nói được tiếng Anh. Một số bác sỹ trẻ nói tiếng Anh giỏi. Mấy người bạn Việt Nam khác ở đây, từng vào bệnh viện Nhật, cũng đồng ý với chúng tôi như vậy. Đến khi vợ tôi kể chuyện này với một người bạn Nhật, bà này chẳng tỏ vẻ gì là ngạc nhiên cả. Bà ta cho điều đó là tất nhiên. Bà ta bảo: “Người bệnh là người ốm yếu, đầy lo lắng ưu tư nên bác sỹ, y tá phải có nhiệm vụ làm dịu đi sự băn khoăn đó”. Nghe nói bệnh viện tư nhân phục vụ còn tốt hơn thế.

Chuyện phục vụ tốt trên mặt đất ở Nhật kể không hết. Phục vụ trên trời cũng “siêu” không kém. Ai đã bay Japan Air Lines (JAL) có thể dễ dàng nhận thấy điều đó. Các cô chiêu đãi viên của Nhật bao giờ cũng hết sức nhã nhặn, lịch sự, nói như rót mật vào tai. Có lần tôi đang ngồi trên một chuyến bay của JAL từ Tokyo sang châu Âu thì một con muỗi từ đâu đó xuất hiện vo ve trước mặt tôi. Tôi đành vỗ hai bàn tay đập chết con muỗi. Ngay lúc đó, một cô chiêu đãi viên xinh đẹp tình cờ đi ngang qua nhìn thấy. Cô ta lập tức cúi xuống, miệng mỉm cười, bàn tay trắng muốt xòe ra để … đỡ lấy cái xác con muỗi đem vứt đi.

4) Không ai xâm phạm quyền tự do biểu hiện

Điều 21 trong Hiến pháp cuả Nhật [2] đảm bảo hoàn toàn không có bất cứ một sự kiểm duyệt nào đối với quyền tự do biểu hiện của mỗi người dân. Vì vậy, ở Nhật không có bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào có quyền bắt bạn cắt xén sáng tạo của bạn hoặc ngăn cấm bạn triển lãm hoặc in ấn tác phẩm của mình vì những gì bạn viết hoặc vẽ ra trong tác phẩm của bạn. Nếu có tranh chấp liên quan xảy ra thì cả hai phía: phía muốn kiểm duyệt và phía tác giả hoặc nhà xuất bản đều bình đẳng trước pháp luật tức là đều có quyền mời luật sư và giải quyết tranh chấp tại tòa án (Như vụ con gái một chính khách kiện một nhà xuất bản đã đăng vụ ly dị của cô ta lên báo gần đây). Tiêu chuẩn duy nhất để một bức tranh được treo tại triển lãm tập thể của một hội mỹ thuật nào đó, tại một địa điểm công cộng nào đó như bảo tàng mỹ thuật, gallery, v.v. là nghệ thuật thuần tuý và chỉ có nghệ thuật mà thôi. Tranh đẹp thì được treo. Tranh xấu (hoặc không đẹp bằng) thì bị loại. Tất nhiên đẹp hay xấu còn tuỳ thuộc vào thẩm mỹ của hội đồng nghệ thuật. Vì thế, để giảm tối thiểu sự thiên vị của một vài “ủy viên hội đồng nghệ thuật”, các hội mỹ thuật ở Nhật thường mời tất cả các hội viên (vài trăm người) cùng họp để chọn tranh, bằng cách giơ tay biểu quyết. Tranh nào được nhiều hội viên chọn thì được treo.

5) Hệ thống văn hoá giáo dục và các viện nghiên cứu:

Nhật bản là nước có tỷ lệ người biết đọc biết viết cao nhất thế giới, tới 99% dân số. Người Nhật kể cả tầng lớp lao động ít học cũng hành xử rất có văn hóa. Mọi người nói năng rất lịch sự. Không thấy ai nói tục chửi bậy ở nơi công cộng. Trên các phương tiện giao thông công cộng, ngoài phố, rất khó phân biệt người giàu người nghèo vì ai nấy đều ăn mặc đẹp đẽ, lịch sự như nhau tuy là không ai giống ai. Những người làm cho các công ty thường mặc “com-lê” đeo “cà-vạt”. Giới trẻ ăn mặc hiện đại, lố lăng hơn nhưng không hề có ai dám tỏ ý phê bình, chê bai chứ chưa nói là cấm đoán dù là với bất cứ lý do gì kể cả “thuần phong mỹ tục”. Ai cũng hiểu đó là quyền tự do cá nhân được hiến pháp tôn trọng tuyệt đối. Một số ít trường không cho phép học sinh trung học nhuộm tóc. Nhiều trường khác không hề ngăn cấm. Có lần một thày giáo bị bố mẹ một học sinh kiện vì đã bắt con của họ gội sạch mái tóc nhuộm vì như vậy là vi phạm tự do thân thể của học sinh. Trừ một số người “vô gia cư” (homeless) sống thường trực tại công viên Ueno ở trung tâm Tokyo, ngoài phố hầu như không gặp người rách rưới hoặc người ăn xin. Trong quan hệ giao tiếp, người Nhật thường rất nhún nhường, ít khi nói về mình, về gia đình con cái mình. Đặc biệt họ không bao giờ khoe khoang, nhất là khoe giàu, khoe giỏi hơn người khác vì họ tránh hết sức lòng ghen tị [3]. Họ đánh giá cao tình hữu nghị lâu dài. Sau khi họ đã tin tưởng bạn, họ giúp đỡ bạn vô điều kiện.

Nói chung, học sinh Nhật rất tôn trọng thầy cô giáo và các học sinh lớp trên. Hệ thống tiểu học của Nhật khá nhẹ nhàng, học như chơi. Lên trung học thì bắt đầu căng hơn vì phải học để thi vào các trường cao học (cấp 3) tốt thì mới có cơ may thi được vào các trường đại học tốt. Tốt nghiệp các trường đại học danh tiếng (như ĐHTH Tokyo, ĐHTH Waseda, v.v.) thì khả năng tìm được việc làm ở các công ty tốt sẽ lớn hơn. Vì thế, học sinh Nhật cũng “học thêm” ở các trung tâm luyện thi bên ngoài. Nhưng những thầy dạy ở các trung tâm “học thêm” đó tuyệt đối không được dạy tại các trường học chính quy. Hoàn toàn không có việc một thầy (cô) giáo sáng dạy chính khóa, chiều lại dạy “thêm” cho chính học sinh lớp mình. Giáo giới được xã hội rất tôn trọng và được trả lương khá cao, tăng lương định kỳ và được tiền thưởng hàng năm bằng 5 tháng lương. Lương một giáo viên độc thân 23 – 24 tuổi mới vào nghề là khoảng 3 triệu yen (27 ngàn USD) mỗi năm. Một giáo viên 40 tuổi có một vợ và 2 con hưởng lương khoảng 5.5 triệu yen (50 ngàn USD) mỗi năm, tương đương lương phó giáo sư đại học (không quá 35 tuổi) khoảng 5 triệu yên (45 ngàn USD) mỗi năm [4].

Sách vở, thiết bị phục vụ cho việc học ở Nhật rất đẹp, hiện đại và đầy đủ. Lớp học thường được trang bị các phương tiện nghe nhìn như TV, video, v.v. Đặc biệt các môn ngoại khóa rất đa dạng. Tất cả học sinh từ trung học trở lên đều tham gia hoạt động ngoại khóa tại các câu lạc bộ khác nhau (âm nhạc, hội họa, thể thao: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng chầy, tennis, badminton, bơi, judo, karate, aikido, kiếm thuật, bắn cung, v.v.). Tất cả đều được trang bị rất chuyên nghiệp và luyện tập hàng ngày (Người Nhật đã làm gì thì thích làm rất “chuyên nghiệp”, ít nhất là về trang bị dụng cụ.).

Khá nhiều trẻ con Nhật được bố mẹ cho học nhạc tuy không phải tất cả theo được đến cùng. Nhiều gia đình có đàn piano đứng (upright piano), thậm chí đàn grand piano (đại dương cầm). Hãng Yamaha có một mạng lưới dạy âm nhạc trên toàn nước Nhật. Các cô giáo đều tốt nghiệp đại học âm nhạc, tài nghệ cao, trình độ sư phạm rất giỏi và không bao giờ quát mắng học trò. Một cô giáo piano, khi giảng cho học sinh phải chơi không rung cổ tay, đã để một cục tẩy lên cổ tay mình rồi chạy ngón mà cục tẩy vẫn nằm trên cổ tay cô, không rơi xuống đất (!) Học sinh học piano đến giờ lên lớp bao giờ cũng được chơi đại dương cầm Yamaha. Nhiều người khi vào đại học đã học 10 -12 năm piano, sau đó lại tiếp tục học thêm, tuy không trở thành nhạc sỹ chuyên nghiệp. Vì thế, trình độ âm nhạc nghiệp dư của người Nhật khá cao. Các kinh điển của các nhà soạn nhạc cổ điển như Bach, Mozart, Beethoven, Mendelssohn, Chopin, Listz, các nhạc sỹ nghiệp dư này đều chơi như “cháo” cả. Ở Tokyo có nhiều phòng hoà nhạc cho các nhạc sỹ nghiệp dư biểu diễn không mất tiền hoặc phải trả rất ít tiền nhưng nhạc cụ bao giờ cũng là hạng đầu bảng như Steinway hoặc Yamaha concert grand piano. Tất nhiên, không phải xin phép bất cứ một cơ quan văn hoá nào để trình diễn ca nhạc. Mọi việc đều do ca sỹ, nhạc công và chủ phòng hòa nhạc quyết định.

Các viện nghiên cứu quốc gia lớn của Nhật thường giầu có hơn các trường đại học. Ví dụ là viện RIKEN đã nói ở trên. Đây là một viện nghiên cứu hàng đầu trên thế giới. Viện này có khoảng 5,500 người làm việc, trong đó chỉ có khoảng 700 nhân viên hành chính phục vụ các nhà nghiên cứu. Viện có 5 cơ sở đóng tại Wako (ngoại ô Tokyo), Tsukuba, Harima, Yokohama, và Kobe. Kinh phí nghiên cứu của viện hàng năm, chủ yếu do Nhà nước cấp, vào khoảng 80 – 85 tỷ yên (ngót ngét 800 triệu USD) tức là trung bình chi phí cho mỗi đầu người làm việc tại RIKEN là khoảng 150 ngàn USD mỗi năm [5].

Khối cán bộ hành chính của RIKEN làm việc đúng như “các đầy tớ của các nhà khoa học”. Ở đây không hề có chuyện phòng “Tổ chức cán bộ” hay vụ “Hợp tác quốc tế” “tác oai” các cán bộ nghiên cứu. Các nữ thư ký đều hiểu rất rõ vị trí và chức năng của mình. Một số người trong số họ cũng đã từng tu nghiệp ở Anh, Hoa Kỳ, nói tiếng Anh như người Anh, người Mỹ. Họ luôn luôn niềm nở, rất lịch sự, khiêm tốn và rất thành thạo trong công việc của mình. Mỗi lần tôi đi công tác nước ngoài (dự hội nghị quốc tế, hợp tác nghiên cứu), bất kể đó là Hoa kỳ, châu Âu, Trung quốc, hay Việt Nam v.v., tôi chỉ phải làm hai động tác. Đầu tiên là thông báo cho giám đốc của laboratory của tôi. Sau khi giám đốc đồng ý (thường là bằng miệng), tôi phải điền vào một trang A4 in sẵn hành trình, thời gian công tác của tôi, kèm theo một dự báo giá vé máy bay của hãng du lịch. Tất cả mọi việc còn lại là công việc của cô thư ký và bộ phận tài chính của viện. Họ sẽ tính tiền công tác phí chi cho tôi (gồm chi phí ăn, ở, đi lại) cộng với tiền vé máy bay. Sau đó, toàn bộ số tiền đó sẽ được viện tự động chuyển tới tài khoản cá nhân của tôi tại ngân hàng, trước khi tôi đi công tác. Sau khi đi công tác về, nếu có những khoản chi tiêu khác liên quan tới công việc, viện sẽ thanh toán nốt theo biên lai. Trong 9 năm trời làm việc ở RIKEN, tôi chưa bao giờ thấy họ chậm trễ trong việc chi trả đó. RIKEN quan niệm rằng việc một cán bộ khoa học của RIKEN được mời dự hội nghị quốc tế hoặc hợp tác quốc tế là một cơ hội để phát triển khoa học nói chung, đồng thời đem lại lợi ích, danh giá cho RIKEN nói riêng trong cộng đồng quốc tế. Quà cáp biếu xén sau khi đi công tác về là điều “bất ngờ”, không chờ đợi và không phải thông lệ ở đây, ngoại trừ đó là ý thích của cá nhân người đi công tác. Và cũng không phải vì thế mà người đó được đối xử tốt hơn hoặc tồi hơn so với người khác.

Đón sau:

Một xã hội cho dù có văn minh đến đâu cũng có cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Bài này chỉ liệt kê một số mặt tốt của xã hội Nhật bản.

Một anh bạn Việt Nam mới sang Nhật cùng vợ và con trai học lớp 1. Tôi hỏi cháu: “Cháu thấy trường Nhật khác với trường Việt Nam thế nào?” Cháu trả lời: “Ở trường Nhật cháu cảm thấy được nói năng tự do thoải mái.” Tôi nhớ lại câu chuyện không lấy gì làm vui của chính con trai mình. Cháu nói với tôi là cháu đã nói dối lần đầu tiên khi cháu học lớp 1 ở Hà Nội. Hôm đó, cô giáo quát: “Ai quên mang lọ mực để tay lên bàn”. Các bạn để tay lên bàn đều lãnh một vụt thước kẻ của cô vào tay rất đau. Con tôi cũng quên mực nhưng không muốn ăn vụt nên cháu đã nói dối: “Thưa cô, sáng nay lúc em chuẩn bị lọ mực đi học, mẹ em đã đánh đổ mất!”. Cháu được cô tha. Dạy dỗ dựa trên sự sợ hãi không cảm hóa được con người mà chỉ làm con người trở nên dối trá, thủ đoạn.

Không thể xây dựng một xã hội tự do, văn minh, hạnh phúc dựa trên sự sợ hãi của người dân. Có lẽ người Nhật hiểu rất rõ điều đó khi xây dựng xã hội của họ.

Tokyo, 12 tháng 8 năm 2004
Source: www.gocnhinalan.com 

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Bốn “không” ở Singapore



November 20, 2012

Singapore là thành viên của Hiệp hội các nước ASEAN không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế phát triển mà còn được đánh giá có một Chính phủ trong sạch. Singapore có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Tamnhin.net xin giới thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm của Singapore trong chống tham nhũng.



1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng.

Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức Chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do Nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu. Quan chức càng to thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm, thậm chí cả ngàn đô mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô, bị sống trong hoàn cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì mất lại nhiều hơn được. Vì thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao, lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.

2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng.

Chính phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với Nhà nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: Tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng. Nhà nước còn quy định: Quan chức Chính phủ không được phép nợ nần; không được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức Chính phủ muốn mua cổ phiếu phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các công ty đó không có quan hệ lợi ích với Chính phủ. Công chức và quan chức Chính phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.

Luật Báo chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của Chính phủ trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền, v.v…

3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng.

Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân. Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la (Singapore). Nữ công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ quan chính phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng 1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đô la đến 20.000 đô la. Thủ tướng lương tháng hơn 40.000 đô la (thời điểm năm 2000). Với mức lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy công chức và quan chức Chính phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý, mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu huỷ những tham vọng không trong sáng của mình.

4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng.

ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hoá với giá trị tiền không nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của Chính phủ.

Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính phủ Singapore được cử sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo, phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là phiền toái. Cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở sân bay trước khi trở về Singapore.

Nước ta đã trải qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế – xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhưng tệ nạn tham nhũng đã được gọi là quốc nạn mà cả xã hội lên án vẫn phát triển ngày càng tinh vi. Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín (khoá IX), cùng với việc khẳng định những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng đã nghiêm khắc chỉ rõ: “Điều làm cho nhân dân còn bất bình và lo lắng nhiều là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng và khá phổ biến”.

Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp và tích cực chỉ đạo chống tham nhũng. Trên diễn đàn Quốc hội, các cuộc đối thoại của Thủ tướng Chính phủ với báo chí đều khẳng định quyết tâm tuyên chiến với tham nhũng. Nhưng đến nay, hiệu quả đem lại còn hạn chế.

Trông người mà nghĩ đến ta, có thể nói, cách làm của Singapore là gợi ý tốt để chúng ta suy ngẫm, vận dụng trong quá trình xây dựng “Luật chống tham nhũng” của Nhà nước ta. Những biện pháp, những điều khoản điều chỉnh của Luật phải có tính bao quát, toàn diện và phải đồng bộ với các chính sách, bảo đảm tính khả thi. Chú trọng yếu tố kinh tế, sao cho tính ngăn chặn, phòng ngừa cao và tính nghiêm khắc, nghiêm minh trong xử lý vi phạm phải mạnh mẽ. Phương châm và mục tiêu của việc chống tham nhũng nên theo hướng: Làm cho quan chức không dám, không thể, không muốn và không cần tham nhũng mà Singapore đã làm có hiệu quả.
TS. PHAN HỮU TÍCH
(Tầm nhìn)

Đôi cánh mới cho Gloria Nguyễn



November 21, 2012 By Alan Phan

Cũng giống như những kẻ chưa đắc đạo, khi túi quần rủng rỉnh, tôi vẫn thích sắm những món đồ chơi sang trọng cho mình và gia đình, như du thuyền, xế hộp, đồ điện tử, áo quần, hay các linh kiện đắt tiền như đồng hồ, bút máy…. Tuy vậy, trong thâm tâm của một gã trai chân đất, tôi vẫn không mấy mặn mà tha thiết gì với những món hàng này. Mãi về sau, khi đã trải qua nhiều hỉ nộ ái ố của đời người và có thời gian để suy ngẫm lại mọi thứ, tôi thấy chúng giống như những món đồ xa xỉ mà con người ta dùng để đánh bóng hình thức bên ngoài nhiều hơn là nhu cầu sử dụng thực. Và âu đó cũng là một ảo tưởng của nhân gian, rằng sự yếu kém về kiến thức và nhân cách có thể được “nâng cấp” bởi những phù du hư ảo của vật chất.

Câu nói hàng đầu về cốt lõi của nền kinh tế tư bản là “chúng ta tiêu xài những đồng tiền chúng ta không có, mua những mon hàng chúng ta không cần, để khoe mẽ với những người chúng ta không ưa”.

Với tôi, những đồ chơi hay tài sản quý báu trong nhiều năm qua là những trải nghiệm trong đời sống. Và một tài sản khá ấn tượng mang tên Gloria Nguyễn.

Gloria Nguyễn là cô gái được sinh ra dưới một vì sao xấu. Tôi biết Gloria năm cô lên 15, cái tuổi đầy mong manh, đặc biệt trong môi trường cám dỗ và áp lực như xứ Mỹ. Năm Gloria lên 5, một tai nạn xe hơi đã cướp đi người cha thân yêu của cô, đồng thời khiến cô gãy mất một chân, phải lắp chân giả. Sau khi người mẹ đi thêm bước nữa và biến mất, Gloria được giao lại cho ông bà nội và người chú nghèo chăm nuôi.

Dù không xấu, nhưng mặc cảm với thân phận nghèo khó trong khu ổ chuột và cơ thể không lành lặn của mình, Gloria luôn cảm thấy tự ti. Và cô là một trong những biểu tượng của sự tuyệt vọng thầm lặng (quiet desperation) giữa lòng nước Mỹ. Người bạn duy nhất của Gloria là một con chó già nhiều bệnh.

Tình cờ, tôi gặp Gloria trong một buổi diễn thuyết tại câu lạc bộ Bel Air của giới thượng lưu. Cô bé làm việc bán thời gian ở đây bằng chân quét dọn và rửa chén. Khi nhìn thấy tấm bảng chào khách có hình và tên tôi trong hội thảo, Gloria chạy đến hỏi “chú là người Việt à?”. Có lẽ tôi là người Việt duy nhất mà Gloria gặp ở đây, vì câu lạc bộ này thường là chỗ lui tới của mấy anh chị triệu phú da trắng.

Qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi, tôi cũng đủ hình dung được cuộc sống đầy thử thách của một cô bé mới 15 tuổi. Vì có việc phải quay lại châu Á ngày hôm sau, nên tôi chỉ kịp đưa cho Gloria một bài viết của Og Mandino mà tôi tạm dịch ra tiếng Việt là “Thư Luân Lưu Của Cha Già”.

Một tuần sau, tôi nhận được thư của Gloria báo rằng, rất tiếc cô không đọc được tiếng Việt, nhưng cô đã tìm được bản tiếng Anh qua mạng Internet. Điều bất ngờ hơn là 6 năm sau, khi hình ảnh của Gloria đã nhạt nhòa trong ký ức tôi, thì tôi lại nhận được thư cô với thông báo rằng cô sẽ đến thăm Hồng Kông và Trung Quốc trong 7 ngày dã ngoại của nhóm sinh viên sắp ra trường thuộc Trường Đại học Yale. Tôi gặp lại một Gloria đã hoàn toàn thay đổi. Cô bé Lọ Lem đã không biến thành công chúa, mà trở thành một người đầy nghị lực, tự tin, và đang chuẩn bị theo học ngành phẫu thuật óc tại bệnh viện nổi tiếng John Hopkins. Gương mặt cô luôn rạng rỡ, dù chân trái vẫn là chân gỗ.

Cô nói với tôi rằng, hình ảnh của một người Việt diễn thuyết tại Bel Air Club và bài viết của Og Mandino thay đổi hoàn toàn nhận thức của cô về bản thân. Bắt đầu bằng một tư duy mới, cô đã vứt bỏ tất cả những gánh nặng của quá khứ và nỗ lực không ngừng để có được suất học bổng toàn phần từ Trường Đại học Yale. Cô cũng e lệ cho biết rằng cô vừa đính hôn với một luật sư trẻ là bạn học cùng trường.

Cô nói lời cám ơn tôi, rằng nhờ hình ảnh tự tin của tôi ở Bel Air mà cô có được động lực phấn đấu. Nhưng tận thâm tâm mình, tôi đã nói với Gloria rằng, chính tôi mới là người phải cám ơn cô vì tôi đã học được rất nhiều về tư duy và ý chí, về sức mạnh luôn luôn tiềm ẩn trong mọi chúng ta. Con chim sẻ vẫn có thể biến thành đại bàng nếu biết ấp ủ niềm tin.

Alan Phan

25/7/2012

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

Gặp chàng trai Bình Định giành ba học bổng tiến sĩ toàn phần



Tiến Vũ giải thích: “Tôi chọn Trường Deakin bởi GS Dinh Phung - người hướng dẫn chính của tôi - chuyên sâu nghiên cứu về mô hình toán học - lĩnh vực mà tôi muốn theo đuổi. Nhóm nghiên cứu của vị GS này ở Trung tâm Prada, Đại học Deakin, cũng là một trong số ít các nhóm nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này trên thế giới”.

Đề tài Vũ chọn để làm ở Úc là “Weakly-Supervised phương pháp phi tham số Bayes” (Weakly-Supervised Bayesian Nonparametric Models). Đây là một lĩnh vực khá “nóng” trong ngành khoa học máy tính trên thế giới. Tháng 8 năm 2012, Viện Nghiên cứu cao cấp về toán cũng mới tổ chức khóa bồi dưỡng chuyên đề về lĩnh vực này ở Việt Nam.





Hỏi Vũ về lý do chọn ngành khoa học máy tính, trong khi ba Vũ là công an ở địa phương, mẹ là bác sĩ ở Tam Quan, Vũ nói: “Ngày nhỏ, tôi học đều nhưng vẫn mê môn Hóa, lại được thầy Nguyễn Trương (Trường THPT Nguyễn Trân, Hoài Nhơn) hướng dẫn nhiệt tình, từng đi thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Hóa cùng năm với Huỳnh Anh Vũ (cũng là một sinh viên Bình Định, tốt nghiệp Trường đại học Swinburne, Australia - PV). Lúc chọn trường thi đại học, ba mẹ muốn tôi theo ngành Y. Nhưng hồi đó, tôi thi đại học lọt vào top thí sinh đạt điểm cao và được chọn vào lớp cử nhân tài năng của Trường Đại học Khoa học tự nhiên. Mê khoa học tự nhiên nên tôi rất thích và gắn với khoa học máy tính từ đó”.

Học ở Trường Đại học Deakin, ngoài việc được đài thọ học phí, Vũ còn nhận sinh hoạt phí gần 24 ngàn đô la Úc mỗi năm trong suốt 3 năm theo học. “Điều kiện vậy là ổn, vấn đề khó khăn nhất của tôi, cũng như những người lần đầu ra nước ngoài học, bên cạnh ngôn ngữ, vẫn là hòa nhập. Thật may, Australia có chính sách đa văn hóa rất tốt, nên sinh viên nước ngoài sang đây học không gặp nhiều bỡ ngỡ. Geelong tuy ít người Việt, nhưng may mắn là tôi được gặp và cùng thuê nhà với đôi vợ chồng anh chị người Bình Định, cũng là nghiên cứu sinh cùng thầy hướng dẫn. Ngoài ra, tôi còn kết bạn với sinh viên đến từ các nước khác” - Vũ chia sẻ. Trong quá trình học tập nghiên cứu và công tác (giai đoạn Vũ ở lại trường cuối năm 2011) ở khoa Công nghệ thông tin, Đại học Khoa học Tự nhiên, được sự hướng dẫn tận tình của các thầy như PGS.TS Lê Hoài Bắc, TS Trần Minh Triết, TS Lý Quốc Ngọc... nên Vũ như càng được tiếp thêm niềm đam mê.

Hiện nay, Vũ đang bổ sung thêm kiến thức cho quá trình nghiên cứu, hoàn thành một số công trình, đang đưa ra đề cương nghiên cứu, chuẩn bị dữ liệu và chạy thực nghiệm tiếp theo. Ngoài ra, Vũ có thêm ba bài báo tham gia hội thảo quốc tế, trong đó có một hội thảo được xếp hạng A ở Queensland, một hạng B ở Nhật Bản và một ở Melbourne.TVN

Thực tế, không chờ đến khi đã là nghiên cứu sinh, Vũ mới để tâm nghiên cứu khoa học. Ngay từ khi học đại học, chàng sinh viên Bình Định này đã “rinh” không ít giải thưởng về nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn, năm 2010, Vũ đoạt giải thưởng và học bổng Lawrence Sting cho sinh viên xuất sắc các trường đại học và có bài báo khoa học trình bày tại hội thảo quốc tế về Imaging Engineering (ICIE 2011TVN) do Hiệp hội quốc tế kỹ sư máy tính và công nghệ thông tin tổ chức tại Hồng Kong; năm 2011 có giải Quả táo vàng Newton, giải Nhất Sinh viên nghiên cứu khoa học... Trong thời gian chờ visa sang Australia, Vũ lại có thêm bài báo tham gia hội thảo quốc tế về công nghệ thông tin và máy tính do IEEE (một hiệp hội quốc tế chuyên về đổi mới công nghệ) tổ chức tại Việt Nam.

Hỏi Vũ về bí quyết để học tốt và nghiên cứu khoa học, Vũ cho biết: “Quan trọng nhất là say mê với lĩnh vực mình đã chọn. Hơn nữa, trong quá trình học tập, đôi khi chúng ta thấy căng thẳng, điều quan trọng nhất là lạc quan và có niềm tin vào chính mình”.

Nói về tương lai, Vũ cười hiền: “Tôi xác định mục tiêu là học tốt để nắm kỹ năng, kiến thức, công nghệ mới và cũng chỉ có vậy mới mong làm được chút gì đó trong tương lai. Còn nói thêm nữa thì thật khó, bởi tôi mới học năm đầu tiên thôi mà”.

Từ Melbourne (Australia), tôi bắt xe đò xuống Geelong (một thành phố nhỏ thuộc bang Victoria cách Melbourne 70km) và hẹn gặp Nguyễn Tiến Vũ (sinh năm 1989, quê Tam Quan, Hoài Nhơn) ở ga Geelong. Một thanh niên rắn rỏi, da rám nắng, vẻ ngoài hơi “bụi”, khác với những gì tôi hình dung về Vũ khi biết đây là chàng trai Bình Định từng giành đến ba học bổng tiến sĩ toàn phần ở nước ngoài.

Đó là vào cuối năm 2011, sau khi Nguyễn Tiến Vũ vừa tốt nghiệp lớp cử nhân tài năng ngành Khoa học máy tính, khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) với điểm trung bình 8,7 và điểm 10 cho luận văn tốt nghiệp; cùng điểm TOEIC 830, TOEFL iBT 80 và IELS 6.5. Đệ đơn xin học bổng với bảng vàng thành tích là hai bài báo tham gia hội thảo khoa học quốc tế, cùng học bổng hàng năm của nhiều công ty, tổ chức, giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học… Kết quả là cả ba trường đại học: Quốc gia Singapore (NUS), Concordia (Quebec Canada) và Deakin (Victoria, Australia) đều có thư tiếp nhận. Đắn đo cân nhắc, cuối cùng, đầu năm 2012, Vũ khăn gói sang Australia.

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Giải thưởng con ếch…vàng

November 15, 2012 By Alan Phan

BLOG CỦA ALAN NGÀY THỨ SÁU 16/11/2012

Năm hết Tết đến, cả thế giới đang chộn rộn ghi nhận vinh danh thành quả của hoạt động năm cũ, tặng nhau những giải thưởng huân chương nghe rất hoành tráng. Giới điện ảnh quốc tế có Cây Cọ Vàng, Sư Tử Vàng; điện ảnh ta thì cũng khoe Con Diều Vàng…và bao nhiêu loại vàng khác (thường thường không nguyên chất).

Trong khi chuẩn bị về Mỹ làm ăn, lão già Alan muốn mời BCA đề nghị và bình chọn một giải thưởng cho một sự kiện kinh tế xã hội đã, đang và sẽ làm thay đổi bộ mặt Việt Nam trong 10 năm tới. Rất nhiều lựa chọn nghe các bạn: nợ xấu ngân hàng, bong bong BDS, doanh nghiệp nhà nước, y tế giáo dục, sự vô cảm giả dối, hội nghị trung ương, quan làm báo, bầu Kiên, hoặc bất cứ nhân vật hay công ty nào đã tạo một ảnh hưởng siêu khủng trên đám dân đen, dù tiêu cực hay tích cực.

Giải thưởng sẽ được tôn danh là “con ếch vàng của 2012”. Bạn nào giải mã được ý nghĩa sâu xa của tên giải thưởng sẽ được ông già Alan tặng cho 9 cuốn sách Anh-Việt của ông với chữ ký và một bữa ăn tối cho 2 người tại nhà hàng Chris Ruth ở Chicago (phải tự túc vé máy bay và khách sạn).


Vì không được tham dự cuộc bình chọn, ông già Alan xin bật mí suy nghĩ của ông hiện giờ. Theo ông, chương trình thu mua vàng trong dân để đem tiền tươi rót cho …đang thua lỗ thất thế để tạo cú hích cho nền kinh tế trì trệ là một chấn động lịch sử. Bạn BCA nào giải đoán chính xác và đầy đủ các lý do của sự lựa chọn này, xin comment. Ông già Alan sẽ để lại một món quà Giáng Sinh cho bạn.

Tôi nghe nói là các lãnh đạo tài chánh ta đã thỉnh một chuyên gia kinh tế Trung Quốc thuộc Đại Học Beijing để nhờ tư vấn về chương trình này. Sau khi nghe từ A đến Z các diễn tiến và mục tiêu, từ lúc cấm giao dịch vàng miếng đến việc tạo dựng một thương hiệu độc quyền quốc gia, đồng chí TQ đã bắt tay khen ngợi sự sáng tạo và quả cảm của các đồng chí ta. “Đây là sự kiện đầu tiên trong lịch sử của kinh tế thị trường. Không quốc gia nào có thể thuyết phục được người dân bỏ tiền túi ra để các ngài kinh doanh dùm. Một hình thức OPM tuyệt diệu nhất.”

Các bác Việt vẫn thắc mắc, “ Nhưng đây là việc chúng ta vẫn làm thường xuyên trong nền kinh tế XHCN?” “ Một XHCN chính thống như Bắc Triều Tiên thì dân chỉ có “vàng..chó tha” thu gom làm phân bón chứ mua bán với ai? Nhưng các đồng chí phải cẩn thận. Bọn dân đen lúc này khôn ra nhờ Internet. Bạn đẩy tới, họ sẽ đẩy lại. Hai lực đẩy mhư hai toa xe lửa đang chậm chạp tiến ngược chiều và sẽ đâm vào nhau vì cùng trên một đường ray”

“Đồng chí có giải pháp nào khác để giúp?”

“Tôi sẽ kêu phone cho lão già Alan bay từ Hồng Kông về.”

“Thằng cha đó nó giỏi thế à?”

“Không, nó cũng chẳng biết giải pháp gì đâu. Nhưng tôi chắc trong 67 năm đời hắn, hắn chưa bao giờ thấy 2 xe lửa đâm vào nhau cả.”

Alan Phan

PS: Trong hội thảo ở Hà Nội, cô Lê Quyên có gởi tôi 2 câu hỏi về “định hướng”. Mãi hôm nay mới có thì giờ để trả lời. Xin lỗi về sự chậm trễ:

Câu hỏi của cô Lê Quyên:


Câu 1

- Tiến sỹ Alan Phan có suy nghĩ gì cho sinh viên Việt Nam? Khi ông thấy thực trạng của các bạn ấy có vấn đề về tư duy? Hoặc trong bài viết gần đây nhất ông có hơi nặng lời đó là lớp người không biết tư duy? Vậy, ông là người có nhiều kinh nghiệm, trãi nghiệm ông nên có góp ý giải pháp nào cho các bạn trẻ sinh viên đó?

Trả lời:
Tôi không nghĩ là mình đã nặng lời hay chê lớp người trẻ Việt hiện nay “không biết” tư duy. Tôi luôn đánh giá cao về trí tuệ của người Việt so với các dân tộc khác. Tuy nhiên, tôi nhận thấy là lớp trẻ Việt trong nước “không muốn” tư duy và thích rập khuôn theo những lề lối mà các bậc trưởng thượng (cha mẹ, thầy cô, bạn bè, quan chức…) đã chọn sẵn cho họ. Sự thiếu độc lập và cởi mở tạo nên một hệ thống suy nghĩ bầy đàn, ù lì và lười biếng…khó thích hợp cho một nền kinh tế của kiến thức và sáng tạo. Ngày nào mà giới trẻ Việt còn hành xử như những ông “cụ non”, mệt mỏi và già nua, thì ngày đó nền kinh tế và mức sống của Việt Nam còn tụt hậu vào nấc thang dưới của thế giới.

Câu 2

“Gây dựng cho mọi nhân viên trong nhà máy một tư duy sống và làm việc như đang ở tại một quốc gia tiền tiến”. Đó là bài ông viết về một nhà máy ở tỉnh Trà Vinh của bạn ông, Sau khi bôn ba nơi đất khách quê người đã giành dụm những đồng tiền mồ hôi đó về xây dựng một nhà máy hiện đại ngay trên quê hương Trà Vinh, như một món quà tặng tri ân với quê hương. Đó là đào tạo những con người nông dân trên mảnh đất này thành con người hiện đại. Vậy, với ông sẽ có một dự án tương tự nào cho sinh viên Việt Nam khi ra trường sẽ có được một môi trường như vậy để làm việc hay không?


Trả lời:

Tôi thực sự thán phục anh Mỹ qua việc tạo dựng nhà máy Mỹ Lan và văn hóa mới cho những nông dân Trà Vinh. Chắc chắn tôi đã không có một thành tích nào tương tự qua 43 năm kinh doanh. Hiện nay, tôi đã 67 tuổi, dù nhiệt huyết vẫn còn, nhưng không đủ sức khỏe và thời gian để làm việc như anh Mỹ. Tôi chỉ hy vọng là qua những bài viết, tôi có thể kích động tinh thần và lương tri của các doanh nhân trẻ khác để họ có thể trở thành những “anh Mỹ Trà Vinh” trên quê hương làng nước của họ. Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang rất cần những con người và tấm lòng như anh Mỹ.

Source: www.gocnhinalan.com 

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Oan cho người Việt!

“Xem chuyện tò mò, tọc mạch, bôi xấu lẫn nhau là đặc tính của người Việt là oan cho người Việt” - chuyên gia kinh tế, nhà nghiên cứu, Chủ tịch InvestConsult Group Nguyễn Trần Bạt nói.

Tọc mạch là thói xấu bản năng của con người
- Bàn về tính cộng đồng của người Việt người ta cho rằng đây là một đặc tính khá tốt, nó thể hiện sự quan tâm, tương trợ lẫn nhau. Tuy nhiên bên cạnh những đặc tính tốt đấy nó cũng dẫn đến một số những thói quen xấu như tính tọc mạch hay nói xấu giữa các doanh nghiệp với nhau để đạt được mục đích kinh doanh của mình. Ông có nghĩ như vậy không?

Ông Nguyễn Trần Bạt: Xem chuyện tò mò, tọc mạch, bôi xấu lẫn nhau là đặc tính của người Việt là kết luận không đúng và oan cho người Việt.

Đặc tính ấy có ở mọi tộc người trên thế giới. Người Việt chúng ta chưa có kinh doanh chuyên nghiệp, chưa có kinh nghiệm tổ chức xã hội dân sự và dàn xếp dân sự chuyên nghiệp cho nên thể hiện một cách bản năng, không biết che đậy, không biết giấu giếm, không biết dàn xếp các thói xấu của mình, chứ không phải thói xấu ấy chỉ là của người Việt.

 - Vậy theo ông thì trong kinh doanh có hiện tượng nói xấu lẫn nhau không?

- Luôn luôn có và đấy là vết của tính không chuyên nghiệp, là vết của bản năng con người trong kinh doanh, bản năng chưa được giáo dục, chưa được dạy dỗ, chưa được huấn luyện và chưa chuyên nghiệp của con người khi tham gia kinh doanh.

Không nên xếp những khuyết tật ấy vào đời sống kinh doanh, mà nó là những khuyết tật mang theo của con người khi tham gia vào đời sống kinh doanh.

Khi chú ý đến khía cạnh ấy là chú ý đến chất lượng con người của cộng đồng xã hội chứ không phải là chất lượng của con người tham gia vào cộng đồng kinh doanh.

Nói như thế chúng ta mới thấy được mục tiêu của giáo dục đào tạo là loại bỏ bớt tính bản năng của con người khi nó tham gia vào đời sống kinh doanh, để nó không mang theo quá nhiều tật xấu bản năng mà mọi con người đều có. Cái xấu ấy không chỉ có trong kinh doanh, nó có cả trong thể thao, có trong biểu diễn nghệ thuật, có trong nhiều thứ và đấy là khuyết tật thuộc về con người khi nó tham gia vào những hoạt động chuyên nghiệp khác nhau của đời sống mà chưa được giáo dục đầy đủ.

- Ông nói khuyết tật thuộc về con người, nó chỉ xuất hiện ở cộng đồng người Việt mình hay trên thế giới cũng như vậy?

- Trên toàn thế giới, và chính vì những thói xấu bản năng như vậy của con người cho nên hệ thống luật pháp của các quốc gia phát triển bao giờ cũng chặt chẽ. Lý do là để điều chỉnh chất lượng chuyên nghiệp, loại bỏ bớt tất cả tính ngẫu nhiên bản năng của con người trước khi nó tham gia vào một loại hoạt động.

- Còn ở Việt Nam thì sao, thưa ông?

- Ở Việt Nam chúng ta chưa nhận ra điều ấy, chúng ta chưa điều chỉnh chuyện ấy. Thậm chí không chỉ trong kinh doanh, mà ngay cả trong hoạt động xã hội, hoạt động chính trị đôi khi chúng ta vẫn thấy rất nhiều thói xấu. Kiêu ngạo quá, oai quá, đấy là một loại thói xấu. Thói xấu ấy không có tính chính trị, không có tính tư tưởng mà nó hoàn toàn là thói xấu bản năng. Bởi chúng ta chưa được huấn luyện và chưa được điều chỉnh để những thói xấu bản năng ấy mất đi trước khi chúng ta bước vào các hoạt động chuyên nghiệp như hoạt động nhà nước, hoạt động chính trị, hoạt động kinh doanh, hoạt động nghệ thuật.v.v

- Theo ông thì trong vấn đề này, trách nhiệm thuộc về ai?

- Thuộc về xã hội chúng ta. Nhân dân chúng ta chưa biết đòi hỏi, nhà nước chúng ta chưa biết thức tỉnh nhân dân để họ đòi hỏi chuyện này. Các trí thức của chúng ta cũng chưa nhận ra những khuyết điểm ấy cản trở chất lượng chuyên nghiệp của các loại hoạt động của xã hội. Nếu nhà nước thức tỉnh trước thì nhà nước gợi ý chứ không bắt buộc, vì bắt buộc thì trở thành thiếu tự do, thiếu tôn trọng con người. Bởi khuyết điểm thuộc về con người cũng là quyền của con người. Chúng ta gợi ý con người, gợi ý xã hội. Xã hội bàn thảo, xã hội ủng hộ, xã hội đề nghị và nhà nước cho ra đời những bộ luật điều chỉnh những hành vi cơ bản như vậy giúp cho con người bước vào các hoạt động chuyên nghiệp một cách chuyên nghiệp.

Chuyện này tôi không nói để chơi mà đây chính là một trong những giai đoạn quan trọng của quy trình chuyên nghiệp hóa đời sống xã hội. Ví dụ tôn trọng pháp luật, giật mình trước việc mình vi phạm pháp luật một cách bản năng, một cách kín đáo ngay cả trong phòng ngủ cũng là một bản năng thể hiện tính được giáo dục của một xã hội. Chúng ta chưa giật mình.

Tôi kể các bạn nghe một câu chuyện cổ: Có một ông nhà giàu đến đút lót một người bạn cũ là một ông quan lớn. Ông quan lớn từ chối thì ông nhà giàu bảo, tại sao anh lại từ chối tôi, làm gì có ai biết mà anh từ chối. Ông quan bảo, anh nhầm, có tôi biết, anh biết và trời biết.

Khi nào chúng ta rèn luyện được một xã hội mà ngay cả khi chỉ có một mình chúng ta cũng vẫn nhận ra sự vi phạm pháp luật của mình thì đấy là những dấu hiệu để có thể nói rằng xã hội chúng ta đã bắt đầu những bước đi cơ bản đến chuyên nghiệp. Đương nhiên có những sự vi phạm pháp luật nằm ngoài nhận thức, tức là không biết. Tất cả những sai lầm ấy tích tụ thành những kinh nghiệm để chính mỗi con người tự điều chỉnh và chính nhà nước của nó, cộng đồng của nó cũng thức tỉnh để bổ sung và sửa đổi pháp luật để điều chỉnh một cách tinh tế hơn, một cách toàn diện hơn, một cách sâu sắc hơn các hành vi của con người. Cái đó người ta gọi là tinh thần của pháp quyền.

Chúng ta chưa được huấn luyện để loại bỏ thói xấu bản năng

- Ông nói thói quen chĩa mũi, tọc mạch luôn có ở trong cộng đồng người Việt. Có phải khi đưa vào kinh doanh họ cũng mang theo những thói xấu ấy cho nên văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh của chúng ta chưa được tốt lắm?

- Thói quen tò mò, tọc mạch, cạnh tranh, đố kỵ, bôi xấu là thói quen của loài người, không phải chỉ riêng người Việt.

Người Việt chúng ta khác những người khác ở chỗ chúng ta chưa được huấn luyện trước đó. Chúng ta chưa có các quy tắc để chuẩn hóa các hành vi trước khi con người thông thường tham gia vào các hoạt động chuyên nghiệp như kinh doanh, như chính trị hay biểu diễn nghệ thuật. v.v

Việc hạn chế các mặt tiêu cực về mặt tính cách ấy của con người cần phải được điều chỉnh rộng lớn trên qui mô toàn xã hội. Bởi mỗi một con người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống kinh doanh, đời sống nghệ thuật.v.v Những cái đó được gọi là sinh hoạt chuyên nghiệp. Trước khi tham gia vào các sinh hoạt chuyên nghiệp thì họ cần phải được chuẩn hóa, họ cần phải để những thói xấu tự nhiên mà con người có ra bên ngoài không gian của hoạt động chuyên nghiệp. Sau khi về nhà họ làm việc gì thì đấy là việc bình thường của họ.

Chuyên nghiệp hóa là gì? Chuyên nghiệp hóa là chuẩn bị loại bỏ các phẩm chất không phù hợp với đời sống chuyên nghiệp. Anh là nhạc công, là người biểu diễn nghệ thuật cổ điển thì không thể nói giống như bà bán cá ngoài chợ được, vào nhà hát lớn phải đi nhẹ, nói khẽ. Đấy là những đòi hỏi nhiều khi rất nhỏ nhưng nó là đòi hỏi chuyên nghiệp. Anh cần phải rèn cho anh đôi tai, đôi tai ấy chưa phải là đôi tai thiên tài nhưng phải là đôi tai tối thiểu để anh có thể tham gia vào một loại hoạt động. Ví dụ nếu cãi nhau thì anh phải rất thính để anh nghe tiếng thở dài trong kẻ cãi với anh để biết là nó sắp thua hay nó sắp thắng.

Trong đời sống chính trị cũng như vậy, anh phải quan trắc được vẻ buồn, vẻ bất lực trong khuôn mặt của đối thủ chính trị của mình. Trong kinh doanh anh phải đo được sự nôn nóng. Tất cả những thứ bản năng như vậy là bản năng chuyên nghiệp, nhưng bản năng trước chuyên nghiệp là anh phải loại bỏ khi anh bước vào một lĩnh vực chuyên nghiệp. Chúng ta chưa chuyên nghiệp hóa là bởi vì chúng ta chưa có tiêu chuẩn đầu vào của các không gian hoạt động chuyên nghiệp. Ví dụ khi người ta phỏng vấn bà Trịnh Văn Bô trên truyền hình, bà ấy nói rằng, chúng tôi phân biệt rất rõ giữa con buôn và nhà buôn. Tính chất chuyên nghiệp của thương mại chính là sự phân biệt giữa con buôn và nhà buôn.

Đạo đức trong kinh doanh của chúng ta rất thấp

- So với các nước trên thế giới thì vấn đề đạo đức trong kinh doanh ở các doanh nghiệp của nước ta được đánh giá như thế nào, thưa ông?

- Thấp hơn rất nhiều bởi vì chúng ta không có đủ năng lực để tuân thủ. Ví dụ, rất nhiều người tham gia vào quá trình kinh doanh không đủ năng lực để tuân thủ các cam kết có chất lượng hợp đồng trực tiếp hoặc gián tiếp. Hợp đồng trực tiếp là hợp đồng mình ký, hợp đồng gián tiếp là hợp đồng mà các cộng đồng đã ký với nhau, khi tham gia vào cộng đồng lớn ấy chúng ta bắt buộc phải tuân thủ.

- Theo ông, vấn đề đạo đức trong kinh doanh của những người trẻ tuổi so với những người thuộc thế hệ trước có sự khác nhau không?

- Khác nhau rất xa. Thế hệ trẻ hiện nay có năng lực hơn thế hệ trước. Nhưng, thế hệ trẻ hiện nay thiếu nhiệt huyết để khai thác hết năng lực của mình. Thế hệ già có nhiệt huyết hơn nhưng thiếu năng lực. Nếu muốn thì thế hệ trẻ sẽ có đủ năng lực để thực hiện các cam kết. Nhưng thế hệ trẻ bây giờ đa số thích làm công hơn là làm chủ, bởi làm chủ là phải chịu trách nhiệm. Có những người thích làm chủ thì họ lại thích làm chủ dựa vào sự liều mạng nhiều hơn là sự hiểu biết, cho nên mới đẻ ra các hiện tượng lộng hành trong đời sống kinh doanh.

Tính cộng đồng có vai trò vô cùng quan trọng

- Ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của tính cộng đồng trong sự phát triển của kinh doanh?

- Vô cùng quan trọng, trong nội dung của hoạt động kinh doanh có cả sản xuất và mua bán. Mua bán cũng cần có phổ biến kinh nghiệm, và quá trình mua bán thuần túy nó đã phát triển từ chợ cóc đến siêu thị, từ hình thức mua bán trao tay đến mua bán điện tử, đã phát triển từ hình thức mua bán những nhu yếu phẩm có tính chất cá nhân đến những quan hệ mua bán có chất lượng nhà nước đối với các đối tượng khoa học và công nghệ, kỹ thuật lớn. Mua bán cũng phát triển và do đó việc tạo ra tính cộng đồng, tạo ra sinh hoạt cộng đồng để trao đổi các kinh nghiệm mua bán là vô cùng quan trọng. Người ta có thể mua rẻ và bán đắt, mua hớ và bán hớ, nhưng cái đắt, rẻ ấy không tạo ra được tính chất bình đẳng của đời sống thương mại. Tiền đề của tính công bằng trong đời sống thương mại chính là bắt đầu từ sự phẳng của môi trường thông tin. Mà tính cộng đồng chính là một trong những dung môi quan trọng để tạo ra tính bình đẳng, tính phẳng của các môi trường thông tin.

Tính cộng đồng vô cùng quan trọng. Trong kinh doanh không chỉ có chúng ta, những nhà kinh doanh với nhau mà còn có nhà nước và chính sách. Nhà nước và chính sách là yếu tố phụ trợ, yếu tố xúc tiến, yếu tố kìm hãm cả mặt tiêu cực lẫn mặt tích cực của đời sống kinh doanh. Thỉnh thoảng có xuất hiện những khía cạnh tiêu cực của vai trò nhà nước lẫn chính sách. Tính cộng đồng trong kinh doanh luôn luôn là một sức mạnh để phản ánh trong những lúc cần thiết, để đấu tranh, để chế ngự các mặt có tính chất tiêu cực của đời sống quản lý nhà nước và quản lý chính sách. Tức là quan hệ giữa các cộng đồng kinh doanh với chính sách là một quan hệ sống còn của đời sống phát triển kinh tế.

Tính cộng đồng là vô cùng quan trọng. Nếu chỉ có một cá nhân nói mà không có sự đồng thuận của cộng đồng thì nhà nước không tôn trọng và không để ý.

Như vậy, giá trị tích cực thứ hai của tính cộng đồng là điều chỉnh và sửa đổi các hành vi quản lý nhà nước, các hành vi chính sách. Tiếng nói cộng đồng là tiếng nói đồng thuận của khu vực xã hội liên quan đến loại hình hoạt động kinh doanh sẽ làm cho nhà nước thức tỉnh nhanh hơn, sớm hơn và hành động cấp bách hơn để điều chỉnh chính sách cho phù hợp hơn, không ngăn cản, không hạn chế và có năng lực kìm hãm các khía cạnh tiêu cực của đời sống kinh doanh.

- Theo ông chúng ta phải làm như thế nào để phát huy tầm quan trọng ấy?

- Chúng ta nên định nghĩa rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong đời sống thị trường là gì. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong đời sống thị trường chính là xác lập vai trò xúc tiến các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực một cách nhanh chóng của nhà nước. Hay nói cách khác, nhanh chóng khắc phục các mặt tiêu cực của đời sống quản lý nhà nước và chính sách vĩ mô là một trong những khía cạnh quan trọng nhất biểu hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chuyện này các hiệp hội kinh doanh, phòng thương mại và công nghiệp đóng một vai trò đáng kể bởi đó là những yếu tố thể hiện một cách có tổ chức của khái niệm cộng đồng kinh doanh. Lâu nay chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các hiệp hội và của hệ thống các phòng thương mại cho nên biến nó thành những cơ sở mang nặng tính chất nhà nước, làm nó mất đi hiệu lực của xã hội mà chính nhà nước cần. Tính đồng minh với nhà nước của những tổ chức, của những hiệp hội kinh doanh một cách công khai, một cách máy móc làm cho các tổ chức này mất đi giá trị khách quan của nó.

Xin trân trọng cảm ơn ông !

Vũ Lụa (Thực hiện)
Theo vietnamnet.vn

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Thế hệ của Đốp Catherine

BLOG CỦA ĐỐP CATHERINE NGÀY THỨ SÁU 9/11/2012

Nếu tôi nói rằng thế hệ chúng tôi thiếu vắng tình yêu thương và không biết cách yêu thương, hẳn nhiều người sẽ phản đối.

Thế hệ chúng tôi, mỗi ngày đều có thể lên facebook tỏ tình, nhắn tin tỏ tình, gọi điện tỏ tình. Facebook của chúng tôi có hàng trăm bức ảnh về những con chó, con mèo bị đối xử tệ bạc, những đứa trẻ lòi ruột, sưng não, và bạn chỉ cần nhấn like thay cho 1 lời cầu nguyện. Dễ dàng lắm, nếu bạn đánh game thì bạn nhấp chuột 1 phút khoảng 60 lần. Bỏ ra 1 phút đánh game, bạn like được 60 lần. Thế hệ chúng tôi, thanh niên áo xanh đi làm tình nguyện, hoa hậu đi làm từ thiện, nghệ sĩ đi làm từ thiện, già trẻ lớn bé cứ rằm tháng 7 là đi chùa, làm thơ tặng mẹ, nhắc về cha nhân ngày lễ của cha. Nhưng thế hệ chúng tôi có thật sự được yêu thương và biết cách yêu thương hay không?

Khi ba mẹ tôi bằng tuổi chúng tôi bây giờ, đó là những năm tám mươi sau chiến tranh, khoai sắn còn không đủ ăn, đừng nói đến cơm. Lúc đó, họ chỉ biết cắm cúi đi làm, dốc hết sức lực để kiếm thức ăn cho năm đứa con. Những phút giây ngồi ôm con vào lòng, thủ thỉ với con vài lời thật hiếm hoi làm sao. Chúng tôi lớn lên với tình yêu thương thiếu thốn đó, có chút xíu nào cũng cất giữ, nín nhịn như cây kẹo hiếm hoi có được của ngày Tết. Không trách cha mẹ mình, nhưng chúng tôi vẫn luôn thèm những cử chỉ yêu thương, những lời nói ngọt ngào. Ba mẹ chúng tôi, mua một cân thịt, gói muối cũng phải đứng chầu chực, làm ruộng thì thiếu nước, bán buôn thì khó khăn, về đến nhà còn phải quần quật nuôi heo, trồng cà, có còn sức để lắng nghe chúng tôi đâu.

Khi chúng tôi lên trường, tình yêu thương lại càng thiếu vắng. Cô giáo cũng nghèo, cô giáo chỉ muốn nói chuyện với người giàu, cô giáo thích những đứa trẻ sạch sẽ, mặc áo đầm thơm mùi xà bông và biết nghe lời. Cô giáo không ưa những đứa trẻ rách rưới, đầu có chí, tính tình nghịch như con trai. Thầy giáo vừa đi làm vừa đi buôn, dạy xong là đạp xe ra ngoài chợ chở khoai đi bán. Không có ai lắng nghe chúng tôi cả. Đó là chưa kể xung quanh chúng tôi, ông hàng xóm, thầy giáo trưởng khoa của trường đại học, lúc nào cũng nhìn chúng tôi chằm chằm, sẵn sàng lao vào sờ mó, lạm dụng tình dục. Chúng tôi làm sao biết được có một thứ gọi là tình yêu thương đang tồn tại.

Và như thế, chúng tôi lớn lên lầm lũi như cây cỏ. Thế hệ chúng tôi được cho là may mắn khi vì chúng tôi lớn lên không bị xếp hàng mua thức ăn, không bị đi trại cải tạo, được đi học và số lần nhịn đói ít hơn hẳn. Chúng tôi đi học, kiếm việc làm, lập gia đình, mua nhà, gửi con đi học, đi bệnh viện chữa ung thư, chữa vô sinh. Chúng tôi học cách nín nhịn trước bất công. Bị cô giáo chửi mắng vì làm lộ chuyện cô ăn hối lộ. Chúng tôi im lặng. Bị chủ công ty lừa gạt, không trả tiền phát tờ rơi. Chúng tôi im lặng. Bị sếp quát mắng. Chúng tôi im lặng. Bị mất việc sau khi sinh con. Chúng tôi im lặng. Con đi học, bị cô giáo chèn ép. Chúng tôi im lặng + phong bì. Bị bác sĩ bỏ mặc khi sắp ngất. Chúng tôi run rẩy + phong bì + năn nỉ.

Nhưng khốn nạn thay, tình yêu thương khi bị dồn nén, bị chà đạp, bị coi rẻ lại bị biến thành bạo lực. Và rồi, chúng tôi bắt đầu quát tháo. Chúng tôi quát tháo cấp dưới khi mình có được chút quyền hành. Chúng tôi quát tháo con cái khi chúng đòi đi chơi mà chúng tôi thì thích đi nhậu. Chồng quát tháo vợ, vợ quát tháo chồng. Chúng tôi ngoại tình và chúng tôi luôn kể lể với người khác rằng vợ/ chồng chúng tôi không hiểu mình. Vào quán ăn, chúng tôi quát phục vụ. Bước ra đường, gặp bà bán phế liệu đi xe kềnh càng, chúng tôi quát bà bán phế liệu… Chúng tôi có khả năng luồn cúi trước bạo quyền, trước bất công, trước kẻ giàu và kẻ mạnh nhưng thừa năng lượng để quát tất cả những ai thấp cổ bé họng hơn mình.

Yêu thương kẻ khác mà phương hại đến mình thì đúng là khó. Thế nhưng chúng tôi còn bế tắc hơn nữa trong việc yêu thương chính mình. Chúng tôi không dám ăn mặc khác mọi người khi ra đường. Chúng tôi mệt mỏi nhưng không thể không mua nhà để phải trả lãi vay hằng tháng. Chúng tôi phải ăn và phải nhận hối lộ dù chúng tôi cũng muốn được tôn trọng và tôn trọng pháp luật. Chúng tôi không có thời gian để chờ 50 giây đèn đỏ, chúng tôi cần phải đến quán nhậu với đồng nghiệp, với sếp, với bồ bịch. Chúng tôi cần mọi người thấy mình tồn tại. Hơn thế nữa, chúng tôi cần họ thấy mình tồn tại một cách sang giàu như bao nhiêu người khác. Sang giàu làm chúng tôi thấy an toàn, và chúng tôi thoát khỏi ám ảnh mình bị bỏ rơi và không được yêu thương. Tình yêu thương trong chúng tôi như một khoảng trống không đáy, không thể nhận lấy được và cũng không có gì để cho kẻ khác.

Vậy nên, nếu mọi người mong chờ chúng tôi những lời sẻ chia với sự bất hạnh của những kẻ nghèo hèn, lên tiếng cho sự bất công mà dân oan mất đất phải chịu, lên tiếng cho sự chà đạp nhân phẩm, nhân quyền …thì hẳn quí vị sẽ nhận lại sự thất vọng.

Nếu muốn khác đi, chúng tôi phải học lại từ đầu. Học cách lên tiếng trước trò hối lộ của cô giáo vụ mà không sợ bị đuổi học. Học cách tố cáo thầy giáo, hàng xóm lạm dụng tình dục. Học cách dạy dỗ con mình không cần phải đứng nhất lớp, không cần giấy khen. Học cách kêu gọi trách nhiệm, lương tâm của người thầy thuốc thay vì xin xỏ.

Chúng tôi sẽ học cách chơi với con cái. Đàn ông sẽ học cách rửa chén cho vợ. Đàn bà sẽ học cách hỏi han chồng mỗi khi từ công sở về nhà. Học cách ôm bạn đời mình thật chặt khi họ mệt mỏi và bực bội. Học cách lắng nghe con cái kể về con sâu trên lá cây bàng trước sân trường.

Học cách cảm ơn người phục vụ ở quán ăn và nhẹ nhàng: “em giữ lại tiền thối nhé!” Học cách sống tự do và chọn lựa điều mình ưa thích. Học cách tôn trọng tự do của kẻ khác. Học cách sống chan hoà với động vật. Học cách cảm thông, thấu hiểu và yêu thương người nghèo hèn. Học cách trò chuyện với một cô gái điếm thay vì phán xét. Học cách cầu chúc bình an và rời xa cám dỗ cho những con nghiện ngoài công viên. Học cách nói lời yêu thương với mọi người một cách chân thành. Để lúc đó, khoảng trống yêu thương trong mỗi người chúng tôi đóng lại, cho mỗi hạt yêu thương gieo xuống được lớn lên.

Và như vậy, sẽ đến lúc việc lên tiếng bảo vệ …người nhỏ bé, kêu gọi trả tự do công bằng cho những người dân oan… sẽ không còn là chuyện của một vài người.

Đốp Catherine

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Khi người dân tham nhũng



Nếu quan chức phải lo giấu của cải, rửa tiền khi tham nhũng, thì các tư nhân làm giàu qua sự chiếm đoạt các tài sản công lại được trưng bày và vinh danh trên nhiều mạng truyền thông, hãnh diện với những chiến lợi phẩm.

Trong một cuộc mạn đàm với các viên chức cao cấp của thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề mỹ quan của thành phố và việc bảo vệ môi trường sinh hoạt của người dân, tôi đã đưa ra một đề nghị mà tôi dám bảo đảm là hoàn toàn không tốn kém gì cho ngân sách và sẽ làm thành phố tươi đẹp gấp trăm lần hiện nay. Trên hết, giải pháp này có thể thực hiện và hoàn tất chỉ trong vài tháng. Mọi người đều hào hứng lắng nghe.

Tôi tiếp tục, “Hiện nay tôi chắc đến 95% hè đường của thành phố đang được chiếm dụng một cách phi pháp để làm bãi đậu xe máy, nơi bán hàng rong, hoặc là chỗ để lấn đất từ nhà riêng… Nếu tất cả hè đường đều được dọn sạch, quang đãng và để dành cho người bộ hành như mọi thành phố văn minh khác khắp thế giới, bộ mặt của thành phố Hồ Chí Minh sẽ đổi khác hoàn toàn: cảnh quan sẽ đẹp hơn, đường phố sẽ trật tự hơn và ô nhiễm từ tiếng động và không khí sẽ ít hơn.”

Một quan chức thắc mắc, “Nhưng chúng ta sẽ xử lý thế nào với chỗ đậu xe cho cả triệu chiếc xe máy? Và ảnh hưởng đến việc mưu sinh của các bạn hàng rong sẽ như thế nào?“

Tôi giải thích là cả trăm ngàn mặt tiền căn phố đang được để trống; cho nên, các chủ nhà này sẽ biến chúng thành những bãi đậu xe có trả tiền, đem thêm một số lợi tức cho rất nhiều người. Thực ra, hiện nay, các tay thầu tư nhân đã chiếm dụng bất hợp pháp các lề đường để làm chỗ đậu xe có trả tiền và ăn chia lại với các quan chức của khu phố. Chúng ta chỉ bắt các người sử dụng xe máy phải cho xe vào trong để làm sạch hè đường.

Còn vấn đề các bạn hàng rong, những thành phố như Bangkok hay Kuala Lumpur đều có những khu thương mại rẽ tiền do các tư nhân đầu tư xây dựng, không hề thiếu chỗ để buôn bán. Các khu thương mại này sẽ cải tiến điều kiện vệ sinh công cộng cũng như gia tăng chất lượng của mỗi món hàng nhờ sự kiểm soát hữu hiệu hơn của cơ quan công lực.

Một ảnh hưởng rất tích cực nữa là khi gặp khó khăn và tốn kém trong việc gửi xe, người dân sẽ ít dùng xe máy hơn và quay về với các phương tiện giao thông công cộng hay tản bộ. Việc này sẽ giảm bớt ô nhiễm về không khí, về tiếng động cũng như nạn kẹt xe.

Tuy nhiên, đề nghị này đã không đi xa hơn vì vị quan chủ tọa đã phán quyết, “Đây là một giải pháp không thực hiện được.” Khi tư duy đã buộc chặt vào một kết luận, trước khi có nghiên cứu và tranh luận sâu rộng, thì mọi sáng tạo chỉ là một vận động hoàn toàn vô ích.


Nhưng vấn đề chiếm dụng phi pháp hè đường này của mọi tầng lớp nhân dân hé lộ một vấn nạn lớn hơn của Việt Nam: Đó là sự tham nhũng của chính những người đang mang quyền làm chủ đất nước. Chuyện tham nhũng của quan chức đã gây rất nhiều tranh cãi trên trên khắp các mạng truyền thông, nhưng không mấy ai buồn nhắc đến một sự nhũng lạm còn tốn kém cho tài sản quốc gia gấp ngàn lần từ phía tư nhân và người dân thường.

Nhưng với người dân, nếu họ không có quyền lực gì thì làm sao xếp hạng các hành vi của họ vào loại tham nhũng?

Trước hết, theo định nghĩa của danh từ, “tham nhũng” là một hành xử thiếu đạo đức và lương thiện, lạm dụng chức vụ, quyền lực hay tình thế để chiếm đoạt tài sản hay lợi ích công cộng một cách phi pháp. Như vậy, dù không có chức vụ hay quyền lực, nhưng nếu người nào dựa trên tình thế để chiếm đoạt tài sản công, người ấy cũng phải được coi như là một tội phạm hay đồng lõa tham nhũng.

Tội trốn thuế cũng có thể được coi là tham nhũng vì một phần thu nhập đáng lẽ phải nộp vào ngân sách nhà nước thì đã được cho vào túi riêng.

Ô nhiễm môi trường làm hư hại tài sản công để làm lợi cho thu nhập của mình cũng là một hình thái tham nhũng.

Các chiếm đoạt này không chỉ ngưng lại ở hè đường các thành phố. Những tài sản công từ một vật dụng nhỏ nhoi như chiếc kẹp giấy tờ hay bút chì trong văn phòng, trường học… đến những thửa đất lớn lao cạnh biển hay sông hồ đã được chính người dân thỏa hiệp với quan chức để phân chia làm tài sản riêng của mình.

Chuyện phá rừng, khai thác khoáng sản lậu để bán ra nước ngoài, hay chuyện toa rập để hạ giá cổ phiếu của các công ty quốc doanh trước khi mua lại… là những hành vi hoàn toàn do tư nhân đạo diễn và lợi dụng.

Nếu quan chức phải lo giấu của cải, rửa tiền khi tham nhũng, thì các tư nhân làm giàu qua sự chiếm đoạt các tài sản công lại được trưng bày và vinh danh trên nhiều mạng truyền thông, hãnh diện với những chiến lợi phẩm từ máy bay riêng đến siêu xe đến các chân dài.

Hiện tượng “cổ phần hóa” hay “biến tài sản công thành riêng”, nhập khẩu từ Đông Âu và Trung Quốc, đang được mọi người dân, từ nghèo đến giàu coi như là một trò chơi thú vị, phải thắng bằng mọi giá.

Khi sự nhũng lạm đã trở thành thói quen và chấp nhận khắp nơi, thì tài sản công sẽ còn biến mất dài dài vào các túi tham không đáy của xã hội.

Tôi cho sự tham nhũng này còn đáng sợ hơn nạn tham nhũng dựa trên chức quyền vì gốc rễ của hình thái tham nhũng này bám chặt vào tư duy của người dân và không được ai coi như một vấn đề cần giải quyết.

Nếu mỗi một mét vuông đất ở thành phố Hồ Chí Minh có giá trung bình là 30 triệu đồng và diện tích hè đường chỉ 1% của toàn thành phố (2.095km2), thì tổng số tài sản công bị chiếm đoạt đã lên đến 600 ngàn tỷ VND hay 30 tỷ USD. Nếu tính hết tất cả hè đường của các tỉnh thành toàn quốc, con số này phải lớn gấp ngàn lần các con số tham nhũng từ chức quyền. Và nếu chúng ta cộng luôn những nhũng lạm khác về đất đai, tài sản, cũng như các hồ sơ gian dối về trợ cấp xã hội, dự án công của người dân?

Theo giáo sư James Garfield (1877), nguồn gốc của mọi tham nhũng bắt đầu từ 2 tư duy: lòng tham của con người luôn luôn muốn có “những bữa ăn miễn phí” và sự bất tuân pháp luật hay sự coi thường lợi ích xã hội một cách đại trà.

Tư duy thứ nhất là quan điểm “miễn phí” (something for nothing), không những chỉ phổ biến tại Việt Nam mà còn hiện diện trên mọi quốc gia giàu nghèo. Âu Mỹ nổi tiếng với những chương trình xã hội lấy tiền thuế của người dân có thu nhập để trả tiền cho những kẻ ăn không ngồi rồi. Những lạm dụng về trợ cấp xã hội, thất nghiệp, y tế, nhà ở, thực phẩm… đã được báo động hằng ngày trên các mạng truyền thông Âu – Mỹ. Tuy nhiên, số người dân nghèo luôn luôn nhiều hơn số người giàu nên các chính trị gia Âu – Mỹ vẫn phải tiếp tục các chương trình này để kiếm phiếu từ cử tri.

Cũng vì sự tiêu xài quá mức cho các chương trình xã hội mà các chính phủ Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… gây quá nhiều nợ nần và phải cắt bớt ngân sách. Nhưng tinh thần miễn phí đã ăn sâu vào trí não của người dân nên các cuộc biểu tình tại các nơi này để phản đối việc cắt ngân sách sẽ tiếp tục dài dài trong nhiều năm tới.

Dù sao, ở trường hợp này, sự chiếm đoạt tài sản công để chia riêng cho một thiểu số vẫn nằm trong khuôn khổ luật pháp.

Khai thác khoáng sản lậu cũng chính là một dạng tham nhũng.

Còn tư duy bất tuân pháp luật và coi thường lợi ích xã hội thì hiện rõ tại các quốc gia có dân trí thấp kém hơn. Tại các nơi này, người dân dùng đủ mọi cách để chiếm dụng tài sản công bằng đủ mọi hình thức và phương tiện, bất chấp đến pháp luật cũng như hậu quả tai hại cho xã hội. Nhỏ nhất thì chỉ là xả rác bừa bãi, ăn cắp cây cảnh của công viên, dán biểu ngữ quảng cáo ở cột đèn hay “cầm nhầm” một vài món đồ ở thư viện, bệnh xá. Nặng hơn một chút là bầy bán hàng rong tại cầu đường, hè phố, sử dụng công xa hay kho bãi chính phủ vào mục đích riêng, hay lấy trộm vật liệu và thiết bị tại các công trường xây dựng của nhà nước.

Và như đã nói ở trên, tệ nhất là nạn chiếm đất công hay phá rừng, khai thác khoáng sản lậu, mánh mung để mua tài sản công với giá rẻ, lobby (vận động cửa hậu) để có đặc quyền đặc lợi cho mình và phe nhóm mình… Tư duy này phát triển mạnh khi chúng đi đôi với một cơ chế chính trị phức tạp, dễ bị lạm dụng bởi quan chức cũng như người dân.

Nhiều người Việt khi đến Âu – Mỹ đã ngạc nhiên khi thấy mọi người lái xe kiên nhẫn chờ đèn xanh trước khi vượt qua ngã tư, dù giữa đêm khuya vắng vẻ, không có một chiếc xe nào qua lại trên khúc đường. Chuyện vượt đèn đỏ ngay cả khi xe trái chiều đang tấp nập trong giờ cao điểm là chuyện bình thường ở xã hội Việt. Sự tôn trọng pháp luật ngay cả khi không có cảnh sát công an hiện diện, hay không có nguy cơ bị bắt giữ, phải ăn sâu vào tâm trí của người dân để xã hội có một chuẩn mực đạo đức tối thiểu. Vì thực sự, đạo đức và dân trí của một xã hội là một tổng hợp đạo đức và dân trí của từng cá nhân. Sự thay đổi tư duy và thói quen của mỗi người dân thường là bước khởi đầu và điều kiện tất yếu cho một xã hội văn minh, lành mạnh và hài hòa.

Khi người dân trách cứ các quan chức về tham nhũng, mọi người trong chúng ta phải hỏi lại chính mình là sự trong sạch và đạo đức cá nhân mình đã thể hiện đầy đủ chưa? Bởi vì nói cho cùng, khi chẩn bệnh, chúng ta phải phân biệt đâu là gốc rễ của căn bệnh và đâu là biến chứng. Cả trăm năm trước, Von Goethe đã hiểu rằng, “chính phủ tốt nhất là khi họ để người dân tự cai quản mình.” (The best government is that which teaches us to govern ourselves.) Bởi vì người dân luôn luôn xứng đáng với chính phủ mình đã chọn, dù bằng lá phiếu hay bằng sự thờ ơ.

ALAN PHAN
Source: www.gocnhinalan.com

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Khi Một Ông Già Khoe Mẽ..

October 30, 2012 By Guest 27 Comments

Tác giả: Trần Kinh Nghị


Khi đã lớn tuổi, thì con người được nhiều tự do hơn, được thong thả hơn để sống. Không còn phải như em bé bị cha mẹ ép buộc, bây giờ thì muốn làm chi thì làm, muốn thức khuya dậy sớm gì, cũng chẳng còn ai la mắng dọa nạt, rầy la. Nếu vợ vì thương, sợ mất sức khỏe, thì cũng cằn nhằn chút chút thôi, mình không nghe thì cũng chẳng bị roi đòn gì.

Không còn phải khổ công học tập, lo lắng cho tương lai mai sau, chẳng phải học thêm chi cho mệt trí, biết quá nhiều, biết quá đủ rồi. Nếu đã nghỉ hưu, thì học thêm làm chi. Nếu còn đi làm, thì cũng đã rành nghề, quen tay quen việc, làm việc dễ dàng.

Khi già tình yêu cũng không còn là mối bận tâm, không quan trọng quá, chưa nghe báo đăng các cụ già trên dưới sáu mươi tự vẫn chết vì thất tình. Tội chi mà chết vì tình trong tuổi già, vì cũng sắp thấy Diêm Vương rồi, việc chi mà đi sớm hơn. Khôn quá rồi, chết vì tình yêu là nông nỗi.

Đời sống tình cảm của tuổi già êm đềm hơn, ít đau đớn ít sôi động, và bình lặng. Tuổi già rồi, các ông không còn tính chuyện mèo mỡ lăng nhăng, khỏi phải lo lắng sợ vợ khám phá ra chuyện dấu diếm mà nhà tan cửa nát. Đỡ tốn tiền quà cáp, đỡ tốn thì giờ lui tới các nơi bí mật. Hồi hộp, đau tim. Các bà khỏi phải lo chuyện đi đánh ghen, không còn cần phải chăm chút nhan sắc làm chi nữa, vì như chiếc xe cũ rệu, có sơn phết lại cũng xộc xệch, cũng méo mó. An tâm và chấp nhận, thì khỏi băn khoăn mà vui.

Cũng có một số ít những cặp vợ chồng già đem nhau ra tòa chia tay, vì khi già cả hai đều trở thành khó tính. Hậu quả của ly dị trong tuổi già không trầm trọng như khi còn trẻ, vì con cái đã lớn, đã tự lập, không còn ảnh hưởng nhiều đến tương lai chúng và tương lai của chính mình. Vì còn sống bao lâu nữa mà lo lắng chi cho nhiều. Xa được ông chồng khó tính, độc tài là mừng. Dứt được bà vợ đanh đá, bạc ác là phải sung sướng. Khỏe trí.

Tuổi già, cố giữ cho còn có nhau, khi đã đến nước ly dị, thì hai bên đều đúng, đều có lý. Đây là hành động tự cứu mình, và cứu người ra khỏi cảnh khổ lúc cuối đời, khi mà mộ bia đã thấp thoáng trước mắt, không còn bao nhiêu ngày nữa.

Có điều ít ai nghĩ đến, là càng già, thì càng dễ tìm một người bạn đời để nối lại, để an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Vì chung quanh họ, có thiếu chi người đứt gánh nửa đường. Chồng chết, vợ chết, ly dị. Vấn đề là không sao tìm được một người có chung nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa, nhiều chia xẻ như người phối ngẫu cũ.

Tình già cũng nhẹ nhàng, thong thả, ít khổ đau, ít sôi nổi hơn tình khi còn trẻ trung. Sức lực cũng có còn bao nhiêu mà ghen tương nhau chi, mà lo lắng chi cho thêm mệt, những người lớn tuổi kinh nghiệm và biết rõ như vậy. Nhiều người trẻ, sau khi gia đình tan vỡ thì xuống tinh thần, uống ruợu đánh bài tìm quên, đôi khi không phải vì họ quá thương yêu người cũ mà tự hủy hoại đời mình, mà chính vì họ tự thương thân, tự ái bị xúc phạm, và rồi sa lầy vào ruợu chè cờ bạc. Người lớn tuổi thì suy nghĩ khác. Họ nghĩ rằng ta cũng đã gần đất xa trời rồi, có sống thêm bao lâu nữa mà sầu khổ cho mệt. Mất củ khoai lang, thì kiếm củ khoai mì bù vào.

Tuổi già biết giá trị tương đối của tình yêu nên không tìm tuyệt hão, không tìm lý tưởng, và nhờ vậy không bị thực tế phũ phàng làm vỡ mộng, đau khổ. Khi già rồi, có ai hỏi tuổi, thì cũng không cần dấu diếm, không cần sụt đi năm bảy tuổi làm chi. Sướng lắm. Vì có sụt tuổi, cũng không dấu được những nếp nhăn, mà chẳng có ích lợi gì. Nếu tự cọng thêm cho mình chừng chục tuổi, thì không chừng được thiên hạ nức nở khen là còn trẻ, trẻ quá, và họ mơ ước được như mình.

Các ông có vợ đẹp, khi lớn tuổi cũng đỡ lo bọn dê xồm dòm ngó, lăm le dụ dỗ vợ mình. Con người, ai mà không nhẹ dạ, ai mà không ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai mà không có khi thiếu sáng suốt. Vợ chồng cũng có khi bất hòa, buồn giận nhau, và những khi nầy, lòng người dễ chao đảo lắm. Bởi vậy, các ông đỡ nghe các bà hăm he ly dị, hăm he bỏ nhau. Tuổi nầy các bà cũng thừa khôn ngoan để biết những tên ngon ngọt, hứa hẹn nhiều, thường chỉ là những tên phá đám, chứ không thể tin tưởng được.

Đàn bà có chồng hào hoa, đẹp trai, khi lớn tuổi cũng bớt lo, vì các ông cũng bớt máu nóng, bớt chộn rộn và khôn ngoan hơn thời trẻ trung. Biết kềm chế hơn, và biết rõ giá trị hạnh phúc gia đình cần gìn giữ hơn là chơi ngông.

Tuổi già, vợ chồng sống chung với nhau lâu rồi, chịu dựng nhau giỏi hơn, quen với cái thói hư tật xấu của nhau. Không còn thấy khó chịu nhiều nữa. Dễ dung thứ cho nhau, chấp nhận nhau, vì họ biết rõ bên cạnh cái chưa tốt của người bạn đời, còn có rất nhiều cái tốt khác. Vợ chồng, khi đó biết bao nhiêu là tình nghĩa, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu thân thiết, cho nên hạnh phúc hơn, vui hơn.


Tình yêu trong tuổi già thâm trầm, có thì giờ bên nhau nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. Cũng có nhiều ông bà già ưa cãi vã nhau ,cũng dễ hiểu, khi đó tai của cả hai ông bà đều lãng, người nầy nói một đường, người kia hiểu nẻo khác, cho nên buồn nhau giận nhau, không gây gổ sao được? Tuổi già, thì tất cả mộng ước điên cuồng của thời trẻ trung đã tan vỡ, đã lắng xuống, không còn khích động trong lòng, không còn thao thức nhức nhối. Họ biết sức mình đến đâu, và không tội chi mà ôm cao vọng cho khổ thân. Họ còn biết thêm rằng, nếu những cao vọng điên cuồng ngày xưa mà có thành đi nữa, thì e cũng chỉ là hư không, chẳng đáng gì.
Khi tuổi già, thì biết khôn ngoan mà an phận, biết vui với bình thường. Biết đâu là hạnh phúc chân chính. Nhiều người già rồi mới tiếc suốt một thời son trẻ không biết sống, phí phạm thời gian theo đuổi những huyễn mộng, làm đau khổ mình, làm điêu đứng người khác.
Tuổi già, vui khi thấy mình hết nông nỗi, nhìn đời bằng cái tâm tĩnh lặng hơn. Ai khen không hớn hở mừng, ai chê không vội vã hờn giận. Vì biết rõ mình không có gì xuất chúng để thiên hạ khen nịnh. Và biết mình cũng có nhiều cố tật không chừa được, đáng chê. Chê thì chê, khen thì khen. Khen cũng thế, mà chê cũng thế, thì ta vẫn là ta, là một kẻ già, đáng được khoan thứ hơn là trách móc.
Lúc nầy, không còn muốn làm giàu, không bị con ma tham lam thúc bách để kiếm và tích trữ cho nhiều tiền nhiều bạc. Con cái cũng đã lớn, không phải chi tiêu nhiều thứ , thì tiền bạc, chỉ cần đủ sống thôi, cũng là thỏa nguyện. Họ cũng không cần se sua, tranh hơn thua với ai, tinh thần họ vui vẻ, dễ chịu và khỏe khoắn hơn.


Mối lo âu về tài chánh cũng nghẹ gánh. Bởi khi đó, nhiều người đã tích trữ được một số tiền nhỏ. Nhà cửa cũng đã có. Nợ nhà, nợ xe cũng ít đi, hoặc không còn nữa. Con cái cũng đã lớn, không còn là gánh nặng cho mình. Chúng nó đã có nghề nghiệp, đã làm ăn được. Chắc chắn tương lai chúng khá hơn mình nhiều. Người già không chi tiêu nhiều, ăn cũng ít đi rồi, chơi cũng không còn phung phí dại dột như tuổi trẻ.
Khi già, thời gian mới là thực sự của mình, vì không còn phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống nữa. Không còn bị bó buộc bởi trách nhiệm bổn phận. Có thể ngồi mơ mộng hàng giờ trên ghế đá công viên, thưởng thức thiên nhiên tuyệt thú, có thể tìm được an bình tuyệt đối, không như thời còn trẻ, đi nghỉ mát, mà thỉnh thoảng cũng bị công việc nhà ám ảnh, nhắc nhở.
Tuổi già về hưu, là một mong ước của gần như của tất cả mọi người. Nhiều người gắng làm sao kiếm cho nhiều tiền để dược về hưu sớm hơn. Nhiều thanh niên, ngày về hưu còn xa lắc, xa lơ mà vẫn mơ ước. Người Mỹ, trẻ già chi cũng ngĩ đến hưu trí. Hưu trí trong tuổi già là một phần thưởng của tạo hóa, của xã hội. Cho sung sướng, nghỉ ngơi. Già là nghỉ ngơi, là khỏe khoắn.
Mỗi buổi sáng nằm dài trên giường, sáng nào cũng là chủ nhật trong tuần, muốn dậy lúc mấy giờ cũng được, muốn nằm cho đến trưa đến chiều cũng không sao. Nằm thoải mái, không ai chờ, ai đợi, không có việc gì gấp gáp phải làm, ngoại trừ cái bọng tiểu nó thúc dục, không cho mình nhịn lâu thêm được nữa. Thế thì sao mà không sung sướng.
Nếu chưa về hưu, còn đi làm việc, thì cái tâm của người lớn tuổi cũng nhẹ nhàng, ít bị những sức căng, bị áp lực đè nén. Vì tài chánh cũng quan trọng, nhưng không quá quan trọng đến nỗi khi thất nghiệp thì mất xe, mất nhà, mất vợ mất con như những người còn trẻ. Khi này, nhiều thứ trong cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tiền bạc cũng không quá nhiều. Vã lại, già rồi, kinh nghiệm công việc nhiều, cho nên giải quyết mọi sự trong dễ dàng, thong thả.
Bạn đồng sự cũng có chút nể nang, phần vì tuổi tác, phần vì kinh nghiệm. Có trường hợp, còn có việc thì tốt, mất việc thì mừng hơn, vì có lý do chính đáng để về hưu cho khỏe. Vì nếu việc có hoài, việc lại dễ dàng, thì tiếc, không muốn về hưu. Tuổi lớn, không cần thăng tiến, không cần đua chen với ai, cho nên tinh thần thoải mái, được bạn bè chung quanh thương mến hơn. Những người về hưu rồi, trở lại làm việc, thì đi làm, như đi chơi, chứ không phải “đi cày” như nhiều người khác quan niệm. Vui thì làm tiếp, chán thì về nhà nghỉ ngơi.
Người lớn tuổi, thì sức khỏe xuống, bệnh hoạn ồ ạt đến tấn công, không ai thoát khỏi bệnh hoạn. Nhưng họ lại cảm được cái sung sướng của một ngày khi bệnh thuyên giảm. Một ngày khi cảm thấy gân cốt ít nhức mỏi hơn, dễ chịu trong từng khớp xương hơn. Ngưới trẻ đâu có thấy được những nỗi sung sướng này? Vì họ chưa kinh nghiệm, chưa trải qua, nên chưa biết. Họ có sức khỏe, nhưng họ không biết đó là sung sướng, cho nên, xem như chẳng có giá trị gì. Anh chị xem, nếu anh chị có một tảng ngọc to bằng cái bàn nằm trong vườn, mà anh chị không biết đó là chất ngọc, thì không biết quý, không biết mình sung sướng có tảng ngọc, mà chỉ quý và sướng vì viên ngọc nhỏ xíu nằm trên chiếc nhẫn mà thôi. Có người viết sách rằng, tuổi già, buổi sáng ngủ dậy, nghe xương cốt đau nhức mà mừng, vì biết mình chưa chết. Tôi thêm rằng, biết mình còn sống là mừng, biết mình đã chết nhẹ nhàng, càng mừng hơn.
Nầy anh chị có nhớ câu chuyện Thượng Đế khi đuổi tổ phụ loài người là ông Adam và bà Eva xuống trần gian, có chỉ mặt mà phán : “Từ nay chúng mi phải đổ mồ hôi trán mới có hạt cơm vào mồm”. Đó là câu nguyền rủa độc địa nhất, là lời phán ý nghĩa nhất, là con người phải sống trong nhọc nhằn. Sách Phật cũng có viết đời là đau khổ, và tu để tránh khổ. Đó, đời nầy đáng sống lắm, nhưng cũng nhiều khổ đau lắm. Bởi vậy nên tôi nói, được sống là mừng, mà được chết, cũng mừng. Tôi đi đám ma ông bạn già, thấy gia đình khóc lóc, rên rỉ thảm thương, con cháu mếu máo kể lể. Tôi cười trong bụng, nghĩ rằng bọn nầy không biết luật của tạo hóa. Có sinh thì có diệt. Chúng nó muốn thân nhân của chúng sống đời đời sao? Biết đâu chỉ là khởi điểm của một cuôc rong chơi. Nầy, tôi đọc cho anh chị nghe một đoạn thơ của anh bạn tôi:
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó
Ai thay da mãi mãi sống muôn đời ?
Kẻ trước, người sau xếp hàng xuống mộ,
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi …

Khi tuổi già, thì xem cái chết như về. Ai không phải chết mà sợ. Sống qua khỏi tuổi năm mươi, là đã lời lắm. Tuổi trung bình của con người trên thế giới này chưa được con số năm mươi. Thì mình nên tự xem như được sống thêm đời thứ hai. Đời trước đã hoàn tất, có cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Đời sau nầy, thì chắc chắn là sung sướng hơn hạnh phúc hơn đời trước. Vì đã từng trải, đã gom được kinh nghiệm của đời trước, để thấy đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là phù du huyễn hão. Chết là về. Nhưng chỉ sợ không về được đến nơi đến chốn, mà như chiếc xe hư máy dọc đường. Làm khổ chủ xe, bắt nằm liệt mê man, không sống mà cũng không chết, đó mới là cái đáng sợ. Tôi biết vậy, nên đã làm di chúc, khi nào tôi bị mê ba ngày, thì xin rút ống cho tôi đi. Đi về bình an.

Này, anh chị nghĩ sao về ông bác sĩ mà người ta đặt cho tên là bác sĩ tử thần? Già rồi tôi không nhớ rõ tên, hình như ông ta tên là “Ki-Vô-kiên” phải không? Cái tên gần gần như vậy. Theo tôi, thì ông nầy là một vị Bồ Tát, cứu độ cho chúng sinh mau qua khỏi khổ đau, để bị ra tòa, bị tù tội. Chỉ có cái tâm Bồ Tát thật lớn mới làm được việc đó. Tôi cố tìm một cái ảnh ông ta để thờ sống, mà không có. Tôi nghĩ, trong tương lai, luật pháp sẽ không ngăn cấm việc cho người đau đớn ra đi sớm hơn, vì đàng nào cũng chết, tại sao phải kéo cái đau đớn ra dài hơn mới được chết. Trừng phạt người ta hay sao?
Trong tuổi già, người ta biết ơn sự nhiệm mầu của tạo hóa. Có bộ máy nào, không phải là gang thép, bạch kim, mà chạy một mạch sáu bảy chục năm không ngưng nghỉ, mà vẫn còn hoạt động như quả tim, buồng phổi, trái thận, cái bao tử, não bộ. Có hệ thống ống dẫn nào hoạt động sáu bảy chục năm mà chưa thay thế như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn. Thì dù có rò rỉ van tim, chất mỡ đọng nghẹt trong vài ba mạch máu, thì cũng là sự thường tình, và mừng là còn sống, còn sinh hoạt được. Dù có p hải liền liền đi vào cầu tiểu mỗi ngày nhiều lần, thì họ vẫn sung sướng là cái vòi xài mấy chục năm mà vẫn chỉ mới rò rỉ sơ sơ. Mấy cái vòi nước trong nhà, bằng kim khí cứng, không rỉ sét, thế mà năm bảy năm đã phải thay rồi…

Tác giả: Trần Kinh Nghị
Source: www.gocnhinalan.com