Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản


Harry M. Cleaver, Jr.
Dịch Viên: Nhân Thụy
Adam Smith và Sự khai sáng người Scotland
Adam Smith là một trong các nhà trí thức có một nền tảng giáo dục tốt (trong ngành luật) mà có liên quan đến phong trào ngày nay như một "sự khai sáng người Scotland". Ngoài Adam Smith ra còn có thể kể đến David Hume. Hai vị này đều là người Scotland vùng Glasgow hoặc vùng Edinburg và họ đã cùng làm việc và viết những bài chống lại sự kiểm soát ngày càng mở rộng của nước Anh và những cuộc nổi dậy chống lại nó. Thậm chí trước cuộc cách mạng mà Mỹ chống lại luật lệ của Anh, vùng cao nguyên Scotland đã có những cuộc nổi dậy liên tục vào thế kỷ 18, tràn vào những thung lũng nhỏ hẹp, ở các vùng đất thấp Scotland thì dùng gươm giáo chống lại súng ống của Anh, thậm chí chiếm luôn cả phần đất của Anh. Trong khi đó phản ứng đầu tiên của Anh chính là dùng quân đội (đã đánh bại quân phiến loạn Jacobite và tàn sát cả những thị tộc mà họ gặp phải) trong một thời kỳ lâu dài, với sự trợ giúp của giới trí thức "khai sáng người Scotland", họ đã tiến hành những gì mà ngày nay chúng ta gọi là chống chiến tranh du kích bao quanh, tiêu diệt và xoá sạch văn hoá những thị tộc ở vùng cao nguyên Scotland - có thể gọi đây là nạn diệt chủng văn hoá, nó đựơc lập ra để xoá sạch những con người đó và gom những người còn sót lại theo chế độ chủ nghĩa tư bản Anh. (Lưu ý: tham khảo thêm dòng lịch sử của Scotland và những đường dẫn khác để biết rõ thêm chi tiết, đặc biệt là phần xoá sổ vùng đất cao nguyên. Xem thêm phim Bravehearts và Rob Roy để thấy được Hollywood đã dựng lại những con người vùng cao nguyên đó và cả những tình hình chính trị lúc bấy giờ. Đọc tiểu thuyết Rob Roy của ngài Walter Scott để biết thêm một số hư cấu về một vị anh hùng có thật của Scotland.)
Smith với Thuyết Trọng Thương
Chúng ta hãy bắt đầu với việc khảo sát lại mối liên hệ giữa Smith và những người theo thuyết trọng thương trước thời của ông và ông đã cố gắng tìm tòi để có những nghiên cứu sâu xa hơn những tư tưởng của họ. Đề phục vụ cho mục đích của chúng ta, chưong đầu tiên trong tác phẩm của ông Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân làm giàu cho quốc gia - gồm bốn tập - có cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về những quan niệm của ông ta - chủ yếu tập trung vào tiền tệ, ông cho rằng tiền như một hình thức chủ đạo để làm giàu và cũng cần thiết cho "thặng dư" xuất khẩu nhằm mở rộng mức cung tiền.
Đầu tiên, Smith lập luận rằng trong những thời điểm thuận lợi thậm chí những người theo thuyết trọng thương cũng biết rằng tài sản thật sự của một quốc gia là "đất đai, nhà cửa, và những loại hàng hoá có thể tiêu thụ được" của nó hơn là tiền bạc. Thứ hai, ông cho là lợi nhuận đầu tiên thu được từ mậu dịch chính là mở rộng thị trường cho sản xuất trong nước, có thể bán đi bất kỳ hàng hoá sản xuất thừa trong nước và khuyến khích các ngành trong nước phát triển. Ông cũng chỉ trích đến việc người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã phá huỷ đế chế Mexico và Peru, do đó làm hạn chế mậu dịch với hai nước này. Ông cũng công kích cả sự độc quyền mậu dịch của những nước đế quốc ở Châu Âu như cho phép công ty Đông Ấn của Mun giữ thế độc quyền trong khi đó kiềm chế mậu dịch và tài sản của những nước thuộc địa. Ông đồng tình với chính sách mậu dịch tự do hơn với những vùng thuộc địa Bắc Mỹ. (Còn đối với người bản xứ của Bắc Mỹ, ông không quan tâm đến họ vì cho rằng họ "chỉ là những người không văn minh", do đó ông không dùng đến họ trong giao dich buôn bán hoặc giả không cần kiểm soát đến họ.) Ông cho rằng những bài viết của những người theo thuyết trọng thương chỉ là những lời ngụy biện cho chính những lợi nhuận mà họ đạt được.
Smith với Nhu Cầu Áp Đặt Công Việc
Trong khi Smith coi thường những bài viết về mậu dịch chỉ mang tính tư lợi của những người theo thuyết trọng thương thì chính những quan điểm của ông về nhu cầu áp đặt công việc đối với những người nhàn rỗi cũng giống như những quan điểm của những người đi trước ông. Trong quyển 2 chương thứ ba của tác phẩm Tài sản quốc giacủa ông, ông có đề cập đến những lợi thế to lớn của lương trả cho công nhân, ông xem đó như là "nguồn vốn", tức là xem nó như những phương tiện dùng để kích thích con người làm việc, đó cũng có nghĩa là thu nhập, hay gọi là phần xứng đáng được hưởng của mỗi cá nhân. Những lời ông ta đưa ra phần lớn nhằm mục đích hướng đến cái cách mà những người có tiền sử dụng đồng tiền của họ vào mục đích tiêu thụ, cũng chính điều này làm cho con người ta trở nên lười biếng và không muốn làm việc, nhưng thật ra ông cũng rất ghét sự lười biếng ấy. Ông viết: "Tổ tiên của chúng ta đã quá an nhàn bởi vì họ cho rằng ngành công nghiệp bấy giờ phát triển như thế đã đủ. Như người ta vẫn thường nói rằng thà chơi hơn là làm việc mà chẳng được gì cả". Giống như Mun trước đây, ông cũng đưa ra Hà Lan như một ví dụ tham khảo. "Trong những tỉnh thành chuyên về sản xuất và buôn bán, những người thuộc tầng lớp thấp phần lớn sống nhờ vào tiền lương, họ là những con người chăm chỉ, khoẻ mạnh, không say xỉn, và hầu như ở các tỉnh khác của Anh và Hà Lan cũng như thế".
Đối với thái độ chán ghét "thói lười biếng" và khuyến khích "tính chăm chỉ" thì Smith được xem như một điển hình cho những tác giả viết về kinh tế cùng thời với ông (cũng như đối với cả những người sau này) -- họ đều đưa ra những lý lẽ biện minh cho những người khác trong việc chuyển hầu hết nhân loại trở thành "người lao động". Không xét đến những nhà thần học hay sự chống đối nổi tiếng (như Calvin) và quan tâm đến những tác giả quen thuộc với lịch sử kinh tế, thì thật dễ dàng nhận thấy sự tiếp nối giữa mối quan tâm của John Locke về vấn đề "thay thế bất kỳ khuynh hướng lười biếng nào của trẻ em bằng những thói quen làm việc chăm chỉ," và sự chỉ trích của Smith về "những thói quen lười biếng" của những người công nhân khác nhau. Thật vậy, về mặt ngôn ngữ ta cũng thấy có nhiều nét tương đồng. Hãy so sánh những nghiên cứu của Locke về những mối nguy hiểm của "thái độ thờ ơ" của trẻ với những lời phê bình của Smith về "thái độ thờ ơ" của các công nhân của một nước trong chương mở đầu của quyển Tài sản quốc gia:
"Thói quen thờ ơ và lười nhác vô tình trở thành những tính cách của những người công nhân mà do tự nhiên hay do người công nhân muốn vậy cũng bắt nguồn từ sự ép buộc họ cứ nửa tiếng lại phải thay đổi công việc thay đổi công cụ làm việc, và bàn tay họ cứ phải làm cả 20 cách khác nhau một ngày; điều này làm họ hầu như luôn có thái độ thờ ơ và lười biếng, và không thể chuyên tâm vào những công việc thậm chí cấp thiết"
Hãy so sánh hai quan điểm về "đạo đức trong công việc" ở trên với hai quan điểm trái ngược khác về niềm hân hoan của thái độ thờ ơ và lười biếng. Quan điểm đầu là của David Thoreau trong "Bài Luận Về Những Đặc Tính Tốt Của Việc Bộ Hành", quan điểm thứ hai là của Bertrand Rusell trong bài luận về Tán Dương Thái Độ Nhàn Hạ
Thoreau: "Trong cuộc đời tôi, tôi mới chỉ biết qua một, hai người hiểu được nghệ thuật bộ hành, người mà có biệt tài đi thơ thẩn; từ này bắt nguồn từ "những người nhàn rỗi ở độ tuổi trung niên cứ đi lang đây đó và xin của bố thí. Họ chằng bao giờ đặt bước chân lên vùng đất thánh như họ nói, thật ra đơn thuần họ là những người nhàn rỗi. Tuy nhiên, một số thì bắt nguồn từ sans terre nghĩa là vô gia cư, do đo đương nhiên là không có nhà cửa gì cả nhưng đều có mặt khắp mọi nơi. Đây chính là bí quyết thành công của những người đi lang thang. Suốt ngày anh ta cứ ngồi trong nhà, nhưng anh ta có thể là một gã lang thang vĩ đại, nhưng người đi thẩn thờ thì chẳng vẫn vơ khác gì dòng sông đang tìm đường ra biển lớn."
Russell: "Trong một thế giới nơi mà không có ai bị ép buộc làm việc hơn 4 giờ một ngày, thì ai có những đam mê khoa học riêng thì có thể theo đuổi đam mê ấy của mình, và người hoạ sĩ có thể vẽ tranh mà không sợ bị chết đói, tuy nhiên tranh của anh ta phải có nét gì đặc sắc. Những nhà văn trẻ sẽ không bị ràng buộc phải thu hút sự chú ý của mọi người qua những tác phẩm kiếm cơm của họ, với quan điểm độc lập về kinh tế là cần thiết cho những tác phẩm mang tầm vóc vĩ đại, đối với điều này, khi thời điểm đó đến, thì họ lại mất đi niềm đam mê và khả năng thực hiện nó. […] Trên hết, cuộc sống sẽ đầy ấp hạnh phúc và vui thú thay vì những cơn căng thẳng thần kinh, trạng thái mệt mỏi, và chứng khó tiêu. Công việc phải tạo ra sự say mê chứ không chỉ làm cho con người kiệt sức. Bởi vì con người bị mệt mỏi trong giờ nghĩ ngơi của họ, nên họ sẽ không đòi hỏi những thú giải trí thụ động và nhạt nhẽo. Ít nhất có một phần trăm sẽ không chịu dành thời gian của mình vào những nghề nghiệp của mình nhằm phục vụ cho vấn đề của cộng đồng, và do họ không lệ thuộc vào những mục đích này nên cái tính độc đáo của họ sẽ không gây trở ngại gì, và họ cũng không cần phải tuân theo các tiêu chuẩn do những nhà phê bình lớn tuổi định ra. Nhưng điều này không chỉ đối với các trường hợp có thể được chấp nhận như thế này mà do có lợi thế về sự an nhàn rãnh rỗi. Đối với những người đàn ông và phụ nữ bình thường, thì họ sẽ càng trở nên cởi mở hơn, ít bị ngược đãi hơn, và ít có cái nhìn nghi ngờ hơn đối với người khác. Mưu đồ tiến hành chiến tranh cũng trở nên lụi tàn, một phần vì lý do này, và một phần do nó liên quan đến những công việc đòi hỏi tính dài lâu và nghiêm khắc cho tất cả mọi người. Về mặt đạo đức, sự đôn hậu là một đức tính cần thiết nhất, và nó chính là kết quả của sự nhàn hạ và an toàn, chứ không phải của một cuộc sống đầy ấp cạnh tranh gay gắt. Những phương pháp sản xuất hiện đại đã có thể cho tất cả mọi người sự nhàn hạ và an toàn; thay vì thế chúng ta lại lựa chọn cách làm việc quá sức vì một mục đích nào đó và cả sự nghèo đói. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn cứ giữ thái độ năng động như thời chúng ta chưa có máy móc, trong trường thế này chúng ta đã quá dại dột nhưng không có bất kỳ lý do nào bắt chúng ta dại dột mãi như thế."
Quan điểm khác nhau giữa Smith và những người theo thuyết trọng thương chính là ông nhấn mạnh đến nhân tố sản xuất, xem đây là một địa thế thực tế nhằm thúc đấy người ta làm việc chứ không do nhân tố mậu dịch mà nhân tố này chỉ được xem là thứ yếu mà thôi. Rõ ràng rất nhiều người đã bị thúc ép làm việc trên những chuyến tàu ngoại thương - và những người này cũng như những cuộc đấu tranh của họ (như chiếm tàu, làm cướp biển…) là nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc kháng cự rộng lớn đối với tư sản - nhưng mặt số lượng thì họ đã kiến tạo ra một phần nhỏ của tầng lớp lao động. Khi xét đến khía cạnh phân chia lao động quốc tế đang phát triển (như là những người nô lệ tại Mỹ có nhiệm vụ sản xuất ra sợi cotton và sau đó chúng được chuyển sang các nhà máy tại Anh) thì những người đi biển như vậy (là những người có nhiệm vu khuân vác, vận chuyển và phân phát mặt hàng sợi đó qua Đại Tây Dương) về mặt nào đó thì được xem là "bản chất" của "nhân tố toàn cầu" đang nổi bật như một dây chuyền sản xuất mang từng bộ phận đến cho người công nhân trong cùng một tổ chức, điều này dễ hiểu và kiên định hơn quan điểm mà Smith muốn nhấn mạnh.
Tuy nhiên, Adam Smith chỉ nổi tiếng nhờ ông đã giải thích rõ hơn những người khác đã từng làm rằng nguồn gốc mới và quan trọng của số tài sản đang gia tăng kia thực chất là do những công việc làm mang lại, và phải làm những công việc bị bó buộc trong các nhà máy này của các nhà tư bản công nghiệp. Đó chính là lý do giải thích nguyên nhân tại sao Smith lại bắt đầu quyển Tài Sản Quốc Gia của ông với những phân tích về sự phân chia lao động trong nhà máy và những tác động của nó đến sản xuất và năng xuất lao động. Đây cũng chính là một khía cạnh mang tính bao quát mà hầu hết các phần đều liên quan đến phân tích những người theo thuyết trọng thương. (Và có một điểm mà người ta để ý thấy rằng vào thế kỷ 20 nó đã không được những nhà kinh tế học quan tâm nhưng lại gây được sự chú ý của những nhà kỹ sư công nghiệp, những nhà xã hội học, những nhà tâm lý học.)
Smith với Trường Phái Trọng Nông
Trước khi chuyển những phân tích của Smith về những vấn đề cơ bản của xã hội hiện đại, đầu tiên chúng ta hãy chú ý đến những quan niệm của ông về một trường phái tư duy kinh tế khác đối lập với thuyết trọng thương: trường phái trọng nông. Như chúng ta đã biết, những người theo thuyết trọng nông đã thay đổi những quan điểm của mình từ mậu dịch sang hiệu suất của đất đai và nông nghiệp. Trong suốt thời gian sống tại Paris, Smith đã có dịp gặp gỡ thảo luận với Francois Quesnay và Smith rất ngưỡng mộ con người cũng như những quan điểm của ông ta. Mặc dù ông dành nhiều thời gian lắm cho việc thảo luận những quan điểm của họ trong quyển Tài sản quốc gia, nhưng nói nhiều về trường phái trọng thương, cũng bởi tư duy trọng thương có sức ảnh hưởng mạnh hơn của trọng nông và theo quan điểm của Smith thì quan điểm đó mang nhiều tính chất sai lầm hơn thuyết trọng nông. Thật vậy, trong chương 9 và chương cuối của quyển Tài Sản Quốc Gia, khi ông kết tội những người trọng thương, cho rằng những lý lẽ của họ là ngụy biện và chỉ phụ vụ cho chính bản thân họ mà thôi, trong khi đó ông lại liên tục tỏ lòng trân trọng đối với những lời lẽ văn hoa và những lời công kích của những người trọng nông.
Về cơ bản thì cả hai sự công kích lẫn nhau giữa hai trường phái này đối với ông đều mang tính quan trọng cả. Đầu tiên, rõ ràng rằng tác phẩm Tableau Économique của Quesnay cũng như những nổ lực của nó trong việc cố đạt được tình thế tái sản xuất mở rộng của xã hội đã cuốn hút ông và có những ảnh hưởng đối với ông. Trong khi Smith phê bình Quesnay và những người theo ông khi họ nghĩ rằng trong nông nghiệp để đạt được năng suất thì chỉ cần mở rộng nhân tố lao động và cuối cùng lại tranh cãi đến tính năng suất của lao động trong ngành công nghiệp, thì dường như chính ông lại kế thừa những quan điểm được thể hiện trong quyển Tableau về sản xuất và tái sản xuất xã hội của nhân công nói chung và áp dụng chúng vào tác phẩm của ông. Ông ta không áp dụng hết quyển Tableau cho tác phẩm của mình nhưng nó cung cấp cho ông một điểm khởi đầu để ông có thể mường tượng ra và phân tích về một xã hội mà tự chính nó tái sản xuất. Tôi thiết nghĩ, đây chính là lý do giải thích tại sao ông lại viết rằng: "Tuy nhiên, hệ thống này cùng với những gì nó còn đang dỡ dang có lẽ cũng đã gần đúng nhất với một chân lý mà chưa được biết đến trong vấn đề kinh tế chính trị […]"
Thứ hai, ngoài việc nhân tố lao động đóng một vai trò cơ bản (hơn là đất đai), Smith còn cho rằng đối với thuyết trọng nông nó cũng cần thiết cho một nhành "mậu dịch mở và tự do", trong cũng như ngoài nước, xem nó như một nhân tố quan trọng để mở rộng công nghiệp. Thật ra, mậu dịch tự do có nghĩa là thị trường tự do và đối với Smith những điều chỉnh tự động của thị trường tự do không chỉ là phương tiện tái sản xuất của xã hội mà còn tối đa hoá sự thịnh vượng của xã hội. Viễn cảnh chung về những thị trường tự thân điều hoà cũng giống như sự tổng hợp cả hai quan điểm của Cantillon và Hume về những động lực tự điều hoà của cơ chế về dòng luân chuyển và trở thành một thực thể của "bàn tay vô hình" nổi tiếng của Smith.
[Lưu ý: sau Smith còn có một người phát ngôn cho quan điểm về mậu dịch tự do của ông, đó là Frédéric Bastiat (1801-1850) - là một nhà kinh tế học người Pháp. Mặc dù không phải là một lý luận vĩ đại nhưng Bastiat mang bản chất thông minh và đã công kích đến những chính sách bảo hộ mậu dịch thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả Smith. Không còn nghi ngờ gì nửa, tác phẩm của ông ta - quyển Kiến Nghị (Petition) - là một quyển được nhiều người biết đến nhất về những công kích mang tính trào phúng của ông đối với vấn đề bảo hộ bởi vì ông đứng về phía ủng hộ cho mậu dịch tự do.]
Smith với Vấn Đề Giá Trị
Phần đầu đề của quyển đầu tiên trong tác phẩm Tài Sản Quốc Gia bắt đầu với câu: "những động cơ nâng cao năng lực của nhân tố lao động". Vấn đề đầu tiên nhất của chưong mở đầu là "những động cơ" (tức là sự phân chia lao động) nhưng hiện tượng về vấn đề nâng cao mà ông ta quan tâm hàng đầu là "lao động". Nói cách khác, Smith bắt đầu tâp trung vào phân tích công việc làm, việc làm của con người, những việc làm của con người do những nhà tư bản tạo ra. Những nhà tư bản này không "sử dụng đồng tiền vào công việc" mà là sử dụng nó để thúc ép người ta làm việc. Quan điểm chính của ông về "lao động" hay "việc làm dưới chế độ tư bản" là những gì mà cuối cùng Smith tự phân biệt "trường phái kinh tế học cổ điển" nói chung với quan điểm về vấn đề tiền và mậu dịch của thuyết trọng thương và vấn đề đất đai của thuyết trọng nông. Smith đặc biết đã tạo ra "lý thuyết về giá trị lao động" (Labor Theory of Value).
Cũng đã có nhiều "lý thuyết lao động" về mặt giá trị trước và sau Smith, nhưng những lý thuyết trước thời Smith có những thể hiện mang tính triết lý hơn về vấn đề trọng tâm chính của việc làm ngày đang gia tăng là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như những quan điểm của John Locke về vai trò cơ bản của người lao động trong sự kiến lập "tài sản" , còn những thuyết sau Smith lại ủng hộ cho tầng lớp lao động hoặc phê phán chủ nghĩa tư bản vì cách mà họ áp đặt công việc cho người khác đang làm huỷ hoại con người. Mặt khác, quan điểm cuả Smith cũng dựa vào quan điểm của Locke, tập trung vào mối quan tâm của thế giới về thay đổi cơ bản trong đời sống xã hội do tầng lớp tư bản đang phát triển tạo ra: con người bây giờ không làm việc để sống, mà là sống để làm việc.
Trong quyển Tài Sản Quốc Gia, Smith đã mang đến cho độc giả thuyết lao động về mặt giá trị của ông qua những lý luận về tiền tệ và những thay đổi của giá trị tiền tệ (tiền kim loại truyền thống) và cả những thay đổi của giá trị hàng hoá được đo bằng tiền. Những thay đổi liên tục này khiến cho ông phải tìm kiếm một cái gì đó cố định hơn ẩn sau giá trị của đồng tiền. Những gì ông đưa ra như một điều-bí-mật-không-thể-che-dấu của giá trị đích thực chính là lao động (nhớ rằng ông bị ảnh hưởng những quan điểm căn bản từ Locke và những người trước thời ông).
Một mặt, Smith đã nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề trọng tâm chính của lao động ngay trong câu đầu tiên của quyển Tài Sản Quốc Gia: "Lực lượng lao động hàng năm của mỗi quốc gia chính là quỹ cung cấp cho quốc gia đó những thứ tiện nghi và cần thiết cho cuộc sống mà quốc gia đó hàng năm cần dùng đến […]." Nhưng ở cuối chương 4 trong tác phẩm "Nguồn Gốc Và Cách Sử Dụng Tiền Tệ" - quyển 1- ông đi vào thảo luận sâu hơn về "mặt giá trị", ông viết "Giá trị mang hai ý nghĩa khác nhau, và đôi khi nó thể hiện tính hữu dụng của một vật đặc biệt gì đó, đôi khi nó lại thể hiện năng lực mua quyền sở hữu một loại hàng hoá nào đó. Nó có thể được gọi là 'giá trị sử dụng' hay 'giá trị trao đổi'. Dĩ nhiên "giá trị trao đổi" được ưu tiên chú ý nhiều hơn, và ông dành cả chương kế tiếp (5) để giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi"
Ông giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi đối với tất cả các loại hàng hoá chính là lao động"
"Giá trị thực của mọi thứ- mức giá mà con người phải trả để có được những thứ đó - là công sức mà người lao động đã bỏ ra để tạo ra nó. Giá trị mà một người thật sự phải trả để sở hữu một loại hàng hoá hoặc tuỳ ý sử dụng hay trao đổi nó lấy một thứ khác, chính là công sức để làm ra thứ hàng hoá đó mà anh ta tiết kiệm được và người lao động phải gánh lấy trách nhiệm đó. Những gì người lao động dùng tiền hay hàng hoá mua về mang một giá trị như công sức cần thiết để làm ra chúng. […] Sức lao động chính là giá trị đầu tiên, là vật dụng mang giá trị gốc, và tiền dùng để chi trả cho mọi thứ"
Ông ta tiếp tục thảo luận về những vấn đề khó khăn khi đo lường số lượng tương đối sức lao động đến ước tính "giá trị" đầu tiên là bằng hàng hoá (trao đổi) và sau đó là bằng tiền (một hệ thống trao đổi được phát triển đầy đủ hơn). Nhưng ông ta nhấn mạnh rằng mức giá tiền chưa phản ánh hết toàn bộ sức lao động phải bỏ ra để có được loại hàng hoá đó.
Nếu "ở nơi nào cũng chỉ luôn dùng duy nhất sức lao động làm tiêu chí chuẩn thực để đánh giá và so sánh giá trị của tất cả các loại hàng hoá, thì như thuật ngữ của Smith, nó sẽ tạo ra "mức giá thực" và tiền chỉ là "giá trị danh nghĩa".
Trong chương tiếp theo (6), Smith đưa ra hai tình huống kề nhau, một tình huống mà trong đó những người lao động làm việc vì chính bản thân họ, tận hưởng những của cải và thành quả do mình tạo ra, và một tình huống có sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản mà trong đó những nhà tư bản chiếm đoạt một phần giá trị được tạo ra bởi những người mà họ bỏ tiền ra thuê, phần giá trị này được xem như là lợi nhuận. [Lưu ý: việc mô tả một xã hội "nguyên thuỷ" trong đó những cá nhân làm việc độc lập và cho chính bản thân họ thật ra chỉ là trong tư tưởng mà thôi, chứ trong thực tế, mọi người đều có một sự nối kết và làm việc cùng nhau.] Smith cũng chỉ ra rằng đối với những người có ruộng đất mà có thể "hưởng được những gì mà họ không bỏ công sức ra gieo trồng" thì những gì họ hưởng được do lấy từ thành quả lao động của người khác được xem là tiền tô (rent).
Smith với vấn đề Chủ Nghĩa Tư Bản
Nhưng trong khi Smith không đồng tình với những tay địa chủ và "những đòi hỏi tiền tô bất hợp lý" của họ, thì ông lại đồng tình với những nhà tư bản, ông cho rằng, họ sẽ không bỏ "vốn" của họ ra ("vốn" được hiểu là số vốn đầu tư cũng như để mua dụng cụ, nguyên liệu hay thuê công nhân) trừ phi họ kiếm được lợi nhuận từ nó. Xin chú ý rằng: trong khi giữa "mong muốn" và "hành vi" của những nhà doanh nghiệp và địa chủ có một sự nối kết trùng khớp với nhau, thì trong thực tế chẳng có một lý thuyết nào có thể giải thích những phần thành quả lao động nào mà họ có thể chiếm đoạt từ người lao động.
Thật ra Smith xem những tay địa chủ như những người sống bám, và biện minh cho những nhà tư bản là họ làm vì họ muốn tạo ra lợi nhuận, tuy nhiên chẳng có cách nào làm cho Smith thay đổi quan điểm đó về các nhà tư bản. Trong Tài Sản Quốc Gia cũng có một số đoạn Smith viết với giọng gièm pha những nhà tư bản cũng như sự đối lập thường xuyên giữa lợi ích của họ và lợi ích xã hội nói chung. Ví dụ như trong phần cuối của quyển 1, ông đưa ra lời cảnh báo nghe như ông muốn chỉ trích những nhà trọng thương tư lợi cá nhân:
"Việc đề xuất ra bất kỳ luật thương mại mới nào (do tầng lớp tư bản đề xuất) đều phải luôn được chấp thuận của phần đông, và không được chấp nhận nếu không trãi qua thời gian chờ đợi và kiểm tra kỹ lưỡng, không những cực kỳ thận trọng mà còn phải có những mối nghi ngờ về nó nữa. Dó con người đề xuất ra, đó là những người mà quyền lợi của họ chẳng bao giờ tương đồng với quyền lợi của công chúng, những người mà quyền lợi của họ gây tổn hại và đè nặng lên xã hội, cả những người mà có được nhiều cơ hội nhờ lừa đảo và chất gánh nặng lên xã hội."
Cũng giống như câu cách ngôn của giới kinh doanh: "Những gì tốt cho các công ty ô tô thì cũng tốt cho đất nước" (Có lẽ cũng như "những gì tốt cho các công ty dầu hoả thì cũng tốt cho đất nước")
Mặc dù rõ ràng là Smith tin rằng chủ nghĩa tư bản được hình thành từ sự tích luỹ tài sản thông qua đầu tư và những động lực của thị trường, nhưng ông cũng thấy được cấu trúc giai cấp của xã hội tư bản và sự đối lập của những giai cấp này.
Trong chương nói về tiền lương lao động, Smith đã nói thẳng ra rằng những nhà tư bản kết hợp lại tạo thành một giai cấp bóc lột công nhân và họ sử dụng luật pháp nhằm ngăn ngừa những người công nhân đoàn kết chống lại họ:
Những người có quyền thế, mang tính thiểu số, có thể dễ dàng liên kết lại với nhau; và bên cạnh đó luật pháp cũng cho họ có được quyền kết hợp đó hay ít nhất cũng không ngăn cản việc làm này của họ, trong khi đó luật pháp lại ngăn cản sự liên kết của công nhân. Nghị viện của chúng ta cũng không có hành động nào chống lại việc sự liên kết nhằm hạ thấp mức giá của người lao động, ngược lại nghị viện lại có nhiều hành động chống lại sự liên kết nhằm làm gia tăng giá trị lao động. […] Tuy mối liên kết giữa các nhà tư bản chỉ là mối liên kết ngầm nhưng nó bền vững và đồng nhất, mối liên kết này nhằm ngăn chặn sự gia tăng mức lương của người lao động vượt quá giá trị thực mà họ đáng được nhận […] Tuy nhiên những người công nhân lại thường xuyên liên hiệp lại với nhau để chống lại sự liên kết này của các nhà tư bản cũng như đòi tăng giá trị sức lao động của họ."
Trong phần 2 chương 1 của quyển 5, Smith đã giải thích rằng cũng chỉ có những nhà tư bản mới có khả năng kêu gọi quyền lực cảnh sát của chính phủ nhằm bảo vệ tài sản nguồn vốn tư bản của họ và chống lại những cái nghèo nàn và các hành vi thù địch mà họ gây ra.
"Nhưng chính những lòng ham muốn và tham vọng giàu có, sự căm ghét cái nghèo, và cả sự yêu thích niềm hân hoan hưởng thụ lại là những động lực thúc đẩy họ chiếm đoạt lấy tài sản, những động lực làm cho những hành động của họ kiên định hơn và gây mức ảnh hưởng của họ bao quát đến mọi người. Bất cứ nơi nào càng có nhiều tài sản thì nơi đó càng có nhiều bất công. Một người cực kỳ giàu có thì có ít nhất 500 người nghèo khó, sự sung túc giàu có của một số ít người lại làm cho nhiều người trở nên đói nghèo.[…] Chỉ có núp bóng dưới sự che chở của chính quyền địa phương thì những nhà tư bản - những người đang sở hữu một số lượng tài sản quý giá mà do công sức nhiều năm trời và có lẽ của nhiều thế hệ liên tiếp tạo ra nó - mới có được một đêm an giấc."
Hơn nữa, Smith cũng biết rõ rằng thái độ bất mãn đối với công việc bị ép buộc làm ở hiện tại của "những người tầng lớp thấp kém" một phần cũng do những tính cách bảo thủ mà ra. Trong chương đầu tiên của quyển 5 - phần thảo luận về giáo dục - ông đem so sánh hai trường hợp, trường hợp đầu là những ảnh hưởng bất lợi của việc chuyên môn hoá liên quan đến sự phân công lao động của những nhà tư bản, trường hợp thứ hai là những kết quả có lợi ích nhiều hơn trong những xã hội trước đó, thời kỳ mà những binh lính cũng được xem như công nhân. Dường như "những người binh lính" mà Smith đề cập đến đều là những người thuộc vùng Highland những người đã đi xâm chiếm một phần đất vùng Scotland của ông vào thế kỷ 18. Tất nhiên những lối tư duy như thế đã được thể hiện bởi người bạn thân của Smith - ngài David Hume - sau cuộc nổi loạn của Jacobite năm 1745 và sự chiếm đóng của Edinburgh:
"Khi con người ngày càng trở nên văn minh hơn và tự cho phép mình say mê những thứ nghệ thuật và sản xuất, thì lối suy nghĩ của họ sớm muộn cũng khiến họ làm những điều không phù hợp với mình và làm cho họ có một tham vọng khác thường, điều này do lối suy nghĩ hơn là do bản thân họ muốn như thế… Nhưng đối với người có tính cách hung tàn thuộc vùng Highland - những người mà phần lớn đang sống tại Pasturage - lại có thời gian riêng của mình để tự cho phép mình say mê những lý tưởng quân sự… tất cả những lý tưởng đó cứ ấp ủ trong tâm trí chiến đấu của họ và làm cho họ từ một đứa bé nằm trong nôi trở thành một chiến binh hoàn hảo mọi mặt nhưng lại không có tri thức."
Dù sao đi nữa những gì Smith nói về sự chuyên môn hoá và làm việc quá sức khiến cho người công nhân trở nên tồi tệ thêm cũng đã gây tiếng vang đối với thế hệ của những người-gây-kích-động-chống-đối-tư-bản , mặc dù họ cũng biết rằng việc chống đối lại những khuynh hướng như thế càng làm cho người công nhân suy nghĩ và hành động nhiều hơn cả những gì Smith nói.
"Đối với những người mà cả đời họ chỉ làm một số ít việc cho những mục đích có thể nói là giống nhau hoặc giả là gần như nhau thì họ chẳng thể có được những cơ hội sử dụng đến cái vốn hiểu biết của họ cũng như không thể tự mình khám phá ra các giải pháp cho những vấn đề nan giải mà chưa bao giờ xảy ra. Do đó đương nhiên là anh ta thất bại, với thói quen như thế nhìn chung làm cho họ cũng như con người càng trở nên ngu ngốc và ngờ nghệch. Với một trạng thái tinh thần uể oải thì không chỉ không thể đối thoại một cách có lý trí, mà còn không thể bộc lộ được những cảm xúc nhẹ nhàng, lòng bao dung hay cao thượng của mình cũng như không thể có được những cái nhìn đúng đắn đối với cả các bổn phận thậm chí là bình thường của chính cuộc sống riêng của mình […] Đời sống cứ tiếp diễn như thế cũng sẽ làm huỷ hoại đi lòng dũng cảm của con người […] Thậm chí nó làm huỷ hoại cả những hoạt động thân thể của con người, làm cho anh ta không thể sử dụng đến sức mạnh bản thân hay sự kiên trì của anh ta vào công việc."
Nhận thức được điều đó, Smith kêu gọi chính phủ ít nhất cũng phải nổ lực tránh đi những sự thiếu hiểu biết như thế bằng cách cung cấp cho thế hệ con cái của những công nhân một nền tảng giáo dục cơ bản trước khi chúng bước chân vào làm việc. Ông cho rằng một nền giáo dục như thế có thể làm cho người công nhân có được một "tinh thần hăng hái" hơn và "ít lầm đường lạc lối mà có những chống đối ương ngạnh và vô ích đối với các biện pháp của chính phủ." [Lưu ý: ông không cung cấp phương pháp nào làm tổn hại đến tổ chức tư bản mà chỉ đưa ra cách có thể khiến cho người công nhân chấp nhận nó một cách dễ dàng hơn.]
Nhưng trong khi Smith nhận ra được ích lợi của nền giáo dục mà chính phủ cung cấp trong việc góp phần ngăn ngừa nổi loạn, thì nhìn chung ông lại nghĩ rằng những cuộc nổi loạn như thế rốt cuộc gì rồi cũng sẽ bị dập tắt, đặc biệt là những cuộc đấu tranh đòi tăng lương. Không chỉ có những sự phối hợp của các đạo luật chống lại họ mà cả thị trường lao động cũng thế.
Ông thấy rằng bất cứ có sự gia tăng về đồng lương đều cũng dẫn đến tình hình người công nhân kết hôn nhiều hơn và chu cấp cho con cái họ nhiều hơn chứ không phải là tình trạng mà nguồn cung lao động gia tăng và giảm đi mức lương của họ. Trong chương nói về "Tiền lương lao động" ông viết rằng "mức thưởng hào phóng cho người công nhân […] chính là nguyên nhân làm gia tăng dân số" và "sự thưởng quá mức" như thế sớm muộn gì cũng làm giảm lại mức lương của họ và dừng lại ở mức vừa đủ sống. Những quan điểm này được Linh Mục Thomas Malthus tiếp thu và phát triển thêm trong quyển Luận Về Quy Luật Dân Số (xem phần sau) của ông - tác phẩm này trở thành một vũ khí hữu dụng của những nhà tư bản nhằm chống lại những cuộc đấu tranh đòi cải thiện điều kiện việc làm cho người nghèo - tăng lương và trợ cấp xã hội.
Do vậy, quan điểm của Adam Smith đã dẫn dắt chúng ta đi từ quan điểm trọng thương về tiền và mậu dịch đến nhận thức của phái trọng nông về những mối quan hệ thực tiễn giữa những loại tiền nào được thể hiện, rồi đến cuộc đấu tranh giai cấp một cách gay gắt và hỗn loạn.
Smith với Vấn Đề Tiền Tệ
Như chúng ta thấy song song đó, Smith chẳng bao giờ mất đi quan điểm của mình về vấn đề tiền hay mậu dịch và những vai trò quan trọng của chúng nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động của tư bản được diễn ra suôn sẽ. Thật vậy, khi trong chương 2 tập 2 của quyển Tài Sản Quốc Gia, ông đã có bài phân tích về vấn đề tiền tệ và trực tiếp nêu ra vai trò của chúng. Trong đó, ông có lặp lại những quan điểm mà John Law nhấn mạnh, đầu tiên là phương cách mà tiền giấy và tín dụng đang dần thay thế sự lưu thông bằng tiền vàng và bạc (và làm giảm chi phí của vòng quay lưu thông đó) và thứ hai là dù rằng sự thay thế đó vẫn phải do những yếu tố nội tại của mậu dịch quyết định.
Ở đây Smith cũng đưa "học thuyết về tiền thật" (Real Bills Doctrine) lập luận rằng bất kỳ một lượng tiền thừa nào trong vòng luân chuyển cũng sẽ được rút ra. Nếu số lượng thừa là vàng hay bạc thì chúng sẽ được rút ra và chuyển ra nước ngoài nhằm tránh để sinh lợi. Nếu số dư là tiền giấy thì chúng cũng được rút ra nhưng do đây là tiền trong nước không được sử dụng ở nước khác nên chúng sẽ được chuyển thành vàng và bạc trước khi được chuyển ra nước ngoài. Đối với điều này, Smith cho rằng "tất cả các loại tiền có thể dễ dàng lưu thông tại bất kỳ quốc gia nào nhưng vẫn không thể vượt qua giá trị của vàng bạc, của những gì mà chúng cung cấp cho nơi đó[…]" cũng như giá trị của đồng tiền trong vòng luân chuyển không thể vượt qua giá trị mà vòng luân chuyển của cơ chế mậu dịch đang hiện hữu cần đến.

Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản 2

Godwin chống lại vấn đề Việc Làm
Trước khi tiếp tục đến với những nhà kinh tế cổ điển vĩ đại tiếp theo, chúng ta nên chú ý rằng trong khi Smith dường như có thể chấp nhận quan điểm rằng hầu hết những người công nhân bị trả lương thấp, giờ làm việc quá nhiều, thì những nhà kinh tế học khác thì không. Bởi vì ông ta thấy rõ ràng giai cấp công nhân phản đối rất quyết liệt và những phản đối của họ cũng lặp lại và trùng khớp với một số ít các nhà trí thức. Trong số đó đặt biệt nổi tiếng là tác giả William Godwin (1756-1836). Godwin là một nhà phê bình xã hội quan trọng vào đầu thế kỷ 19. Ông kết hôn cùng Mary Wollestonecraft - một trong những người ủng hộ mạnh mẽ cho quyền của người phụ nữ, và con gái họ -- Mary, kết hôn với nhà thơ Shelly, sau này cô nổi tiếng với quyển tiểu thuyết Frankenstein. Những bài viết về các vấn đề xã hội của Godwin được rất nhiều người biết đến và ông được biết đến như một nhà phê bình chủ nghĩa tư bản có nhiều ảnh hưởng.
Một trong những bài phân tích quan trọng của Godwin là Phóng Sự Điều Tra Về Sự Công Bình Chính Trị được in năm 1793. Trong đó, ông chỉ trích những nhà tư bản đã khiến cho đời sống của hầu hết mọi người phải lệ thuộc vào công việc, và cho rằng nếu như xã hội được tổ chức tốt hơn thì mọi người có thể sống tốt hơn, khoẻ mạnh hơn, giàu có hơn với công việc làm ít giờ hơn.
Trong chương 2 tập 8 của quyển Phóng Sự Điều Tra, Godwin viết rằng:
"Mong mỏi của hầu hết mọi người trong xã hội là số lượng lao động tay chân và trong ngành công nghiệp đang được sử dụng - và đặc biệt một phần trong số đó không bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của riêng ta nhưng phụ thuộc vào những điều cần thiết đối với công việc của anh ta - nên giảm ngay ở mức độ có thể"
Ông cho rằng, sự giảm thiểu như vậy là hoàn toàn có thể chặn bước phát triển của chế độ chủ nghĩa tư bản hiện hành. Sau khi đưa ra nhiều giải pháp mà trong đó có bàn đến lao động hiện tại là quá thừa thải, trong chương 6 Godwin quả quyết rằng:
"Từ phát thảo cho sẳn, ta thấy dường như giờ lao động của mỗi 20 người trong một cộng đồng có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cuộc sống cho số người còn lại. Nếu số lao động này chia nhỏ ra, thì nó có thể chiếm một phần hai mươi số thời gian của mỗi người. Hãy tính thử ngành công nghiệp mà trong đó một người lao động có được 10 tiếng một ngày rồi phải trừ đi thời gian họ nghĩ ngơi, ăn cơm, thì mỗi người trong xã hội chỉ cần thuê lao động tay chân trong nửa giờ đồng hồ là có thể đáp ứng đủ nhu cầu của toàn xã hội. Có ai sẽ chịu lùi bước trong ngành nghề? Có ai thấy được ngành công nghiệp đang hoạt động liên tục trong thành phố, và ai sẽ tin rằng trong ngành công nghiệp mà mỗi công nhân chỉ làm có nửa tiếng một ngày thì niềm vui mang đến cho mọi người có thể nhiều hơn hiện tại hay không? Liệu có thể nào chờ được một bức tranh về sự tự do và ưu việt phong phú và đầy màu sắc này hay không, một bức tranh mà trong đó mỗi người sẽ có thể tự do phát huy năng lực của mình mà không cảm thấy chính tâm hồn mình trẻ trung ra bởi sự hâm mộ và hy vọng một điều gì đó?"
Linh Mục Thomas Malthus
Linh Mục Thomas Robert Malthus (1766-1834) là con của một vị tu sĩ người Anh thuộc tầng lớp thượng lưu và là nhà kinh tế học đầu tiên của học viện, đang giảng dạy tại trường Đại Học Đông Ấn - trực thuộc công ty Đông Ấn, chuyên đào tạo các viên chức cho công ty này. Không còn nghi ngờ gì nủa, Malthus đã quá nổi tiếng với tác phẩmLuận Về Quy Luật Dân Số của ông, trong đó ông đưa ra những lập luận chống lại những nỗ lực để cải biến số phận của người nghèo (dù cho là có hưởng lương hay không) bằng cách tăng thu nhập và ông cũng chống lại những quan điểm (như quan điểm của Godwin - xem phần trên) cho rằng có thể giảm thiểu thời gian làm việc cho người công nhân. Chúng ta sẽ xem xét đến những lập luận của ông ta lần lượt theo hai điểm như vậy.
Trong quyển Luận của mình, Malthus đưa ra nhiều lập luận với những vấn đề tổng quát, ông cho rằng khuynh hướng sinh sản của con người tỷ lệ thuận với thu nhập mà họ làm ra và chỉ có thể hạn chế khuynh hướng này khi giảm thu nhập. Hơn nửa ông cho rằng với cách tính toán như hiện nay thì khả năng phát triển nguồn lương thực sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát sự phát triển của dân và tránh nạn đói xảy ra, trừ phi có chiến tranh hay dịch bệnh. Trong chương mở đầu của cuốn Luận, ông viết:
"Giả sử như quan điểm của tôi được thừa nhận, tôi cho rằng con người hoàn toàn có khả năng tạo ra lương thực đủ sống cho họ hơn là do trái đất cung cấp. Khi không được kiểm soát thì dân số sẽ gia tăng theo cấp số nhân. Còn lương thực đủ để cung cấp cho họ thì lại gia tăng theo cấp số cộng. Với sự hiểu biết ít ỏi về những con số này chỉ thấy được khả năng rộng lớn của trái đất mà thôi khi so sánh hai nguồn cung cấp thực phẩm với nhau. Theo quy luật tự nhiên mà cho rằng tạo hoá có thể cung cấp đủ lượng lương thực cho con người, thì những hệ quả do hai nguồn lực không cân này mang lại phải được hiệu chỉnh cho bằng nhau. Điều này cũng có nghĩa là phải kiểm soát dân số một cách liên tục và chặc chẽ khi đối mặt với vấn đề khó khăn về nguồn sống. Ở đâu đó phải khắc phục vấn đề này và phần lớn nhân loại phải nhận thức được vấn đề này."
Lập luậm này có hai điểm chính quan trọng: thứ nhất và cũng là tổng quát nhất, là cung cấp cho các nhà tư bản một thứ vũ khí mang tính trí tuệ có thể chống lại những nổ lực của người công nhân đòi tăng lương dưới bất kỳ hình thức nào; thứ hai và chi tiết hơn, là việc vận dụng những lý lẽ của Malthus trong việc công kích Luật Tế Bầncủa nước Anh mà bộ luật này có hại hơn là có lợi. Thật vậy, những lập luận của Malthus qua nhiều năm số người biết đến nó cũng giảm hẳn và khi đọc kỹ lại sẽ phát hiện ra những lập luận gần đây chống lại việc trợ cấp xã hội vào cuối thế kỷ 20 cũng đã được thay đổi từ những gì đã được đặt ra từ 200 trước.
Malthus công kích Luật Tế Bần
Một mặt Malthus cho rằng bỏ tiền ra nuôi những người nghèo không có lương cũng chỉ làm họ có điều kiện để kết hôn nhiều thêm mà thôi, sinh con đẻ cái nhanh hơn, làm việc ít hơn và trở thành gánh nặng cho xã hội. Mặt khác, cũng vấn đề đó ông cho rằng chính những người nghèo có lương phải gánh vác cái gánh nặng ấy - phần còn lại của tầng lớp lao động. Trong chương 5 của quyển Luận, ông viết:
"Luật Tế Bần của nước Anh có khuynh hướng làm suy giảm những điều kiện sống nói chung của người nghèo theo hai cách. Đầu tiên rõ ràng là làm gia tăng dân số mà không gia tăng nguồn thực phẩm gì thêm.
Người nghèo có thể lập gia đình nhưng có thể tự nuôi gia đình hoặc hoàn toàn không. Do vậy trong một phạm vi nào đó người ta cho rằng họ lại tiếp tục duy trì cái nghèo, và, trong trường hợp dân số gia tăng, do số lượng thực phẩm của quốc gia đó cung cấp cho người nghèo phải giảm đi, cho nên rõ ràng những người lao động không được trợ cấp chỉ sẽ mua được một phần thực phẩm nhỏ hơn trước và kết quả là họ phải chạy vạy khắp nơi xin trợ cấp.
Thư hai, số lượng thực phẩm cung cấp cho nhà tế bần lệ thuộc vào một phần của xã hội mà phần đó nhìn chung không được xem xét quan tâm đến như phần mang giá trị nhiều nhất làm giảm đi phần của những thành viên chăm chỉ và xứng đáng khác, và với phương thức như vậy làm chúng trở nên phụ thuộc hơn. Nếu muốn người nghèo trong nhà tế bần có một cuộc sống tốt hơn, thì bằng cách tăng giá trị cung cấp lương thực thì việc phân phối lượng với số tiền trợ cấp xã hội có khuynh hướng hạn chế điều kiện sống của những người không sống trong nhà tế bần."
Nói tóm lại, ông ấy cho rằng giúp đỡ những người nghèo chỉ thêm phí thời gian; nó cũng chỉ làm cho toàn thể tầng lớp lao động trở nên lười biếng thêm. Hãy so sánh điều này với những ý kiến gần đầy chống lại vấn đề trợ cấp xã hội cũng như so sánh những người công nhân phải trả thuế thu nhập với những người được hưởng trợ cấp. (Hoặc giả như trong trường hợp giữa những người phải trả thuế an ninh xã hội với những người được hưởng từ số tiền đó).
Malthus cũng nói thêm rằng tốc độ sản xuất hàng hoá không theo kịp tốc độ phát triển dân số -- điều này cũng đã được David Ricardo và những người khác tiếp thu, và ông đưa ra lý lẽ này dựa trên sự nhận thức của ông về sự gia giảm lợi nhuận biên do việc cày cấy trồng trọt trong những mảnh đất màu mở đã bị chuyển sang những mảnh đất kém màu mở hơn trong nhiều nước giống như Anh. Một trong những gì mà lập luận của Malthus không đề cập đến - và sau này cũng xãy ra tương tự với Ricardo, là năng xuất nông nghiệp gia tăng một cách đáng kể trên những mảnh đất như thế, và gia tăng đủ để nuôi sống cả phần dân số lớn hơn nhiều như họ nghĩ, và có thể cung cấp tốt hơn thế nữa. ("Tốt hơn" ở đây bỏ qua vấn đề về chất lượng của các thực phẩm sản xuất hàng loạt do những thương nhân nông phẩm đã thương mại hoá chúng).
Malthus chống đối lại Godwin và quan điểm về giảm giờ làm việc
Bất cứ ai chịu khó đọc kỹ cả quyển Luận của Malthus đều sẽ nhận ra rằng rất nhiều phần trong quyển sách này chống lại những phê bình về tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là William Godwin. Lời lẽ công kích chính của Malthus là về việc loại bỏ những quan điểm trọng tâm của Godwin về chế độ tư bản và việc chống lại "quy luật tự nhiên" (Natural Law).
"Sai lầm lớn nhất của những nổ lực của ngài Godwin trong toàn bộ tác phẩm của ông ta chính là quy kết tất cả những điều xấu xa tội lỗi trong cái xã hộ này cho chế độ xã hội. Các quy định về chính trị và những quy định về quản lý tài sản đối với ông ta như một thứ nguồn gốc của tất cả mọi tội lỗi, của cả một ổ những tội ác làm suy thoái con người. Nếu như trường hợp này là được cho là đúng, thì nổ lực của ông ta dường như cũng chẳng phải là một việc vô vọng nhằm loại bỏ những thứ xấu xa ra khỏi thế giới, và lý lẽ đó dường như là một công cụ hợp lý và thích đáng cho một mục đích to lớn. Nhưng sự thật ở đây chính là, chế độ xã hội dường như là những nguyên nhân gây ra những tội ác cho con người, tuy nhiên trong thực tế khi được so sánh với những nguyên nhân bẩn thỉu sâu xa hơn thế thì chúng chỉ ở mức độ vừa phải và mang tính thiển cận và mang vẽ bề ngoài mà thôi, đơn thuần như những cộng lông vũ nỗi trên mặt nước vậy, mà chính những nguyên nhân sâu xa đó mới làm vẫn đục những dòng chảy và làm cho dòng chảy cuộc sống con người trở nên hỗn độn."
Lưu ý: phê phán về chế độ tư bản sẽ được tiếp tục lặp lại từ những bài phê bình của những người chống đối tư bản chủ nghĩa như Karl Marx đến những bài của những người đưa ra chủ trương cải cách như những Nhà Lập Ra Thể Chế (xem phần sau).
Bắt đầu chương 10, Malthus đã công kích những yêu cầu của Godwin về sự công bằng xã hội và Malthus dùng lý thuyết dân số của mình để tranh cải rằng không có chổ cho những âm mưu kế hoạch tồn tại được.
Malthus rõ ràng công kích đến đề xuất của Godwin về việc giảm số lượng công việc mà mỗi người cần làm và có nhiều thời gian rãnh cho những gì mình yêu thích. Sau đây là cách mà ông sử dụng thuyết dân số của mình để chống lại Godwin: đầu tiên, ông thừa nhận những tư tưởng của Godwin như lòng từ thiện và tự do yêu đương. Sau đó ông tranh luận rằng trong những trường hợp như thế sẽ dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số:
"Tôi không thể tưởng tượng ra được một xã hội mà quá đông dân số. Những sai lầm không thể sửa chữa được của vấn đề hôn nhân, bởi vì hiện tại nó đang gây ra, không còn nghi ngờ gì nó sẽ ngăn cản nhiều người bước chân vào xã hội. Ngược lại một mối quan hệ phóng túng có thể sẽ là nguyên nhân chính sớm tạo ra những sự ràng buộc, và do chúng ta không quan tâm đến vấn đề nuôi dạy trẻ, nên tôi không tưởng tượng ra rằng trong một trăm người mà lại không có một phụ nữ 23 tuổi mà chưa có gia đình. Với những điều kiện mang tính kích thích đặc biệt như thế, và mỗi một nguyên nhân làm giảm dân số, như chúng ta đã đề cập và loại bỏ, thì dân số tất yếu là sẽ tăng nhanh hơn trong bất kỳ một xã hội nào vẫn chưa biết đến."
Đối với vấn đề khả năng gia tăng thực phẩm không theo kịp tốc độ phát triển dân số, Malthus cho rằng trong những tình hình như thế sẽ làm cho sự khan hiếm ngày càng tăng, phát sinh thói ích kỷ, sự cạnh tranh, chế độ tư bản chủ nghĩa và quan điểm không tưởng của Godwin sẽ sụp đổ.
"Và do vậy dường như là một xã hội được hình thành theo một khuôn thức tuyệt vời từ trí tượng với lòng nhân từ sau khi loại bỏ đi những nguyên tắc - thay vì lòng tự ái, và những ý tưởng xấu xa nằm trong mỗi con người trong xã hội đó, một xã hội mà được hiệu chỉnh lại bởi những lý lẽ chứ không phải bằng vũ lực theo một quy luật không tránh khỏi của tự nhiên chứ không theo bản chất tự nhiên của con người, thì trong một thời gian ngắn xã hội như thế cũng sớm suy thoái trở thành một xã hội được hoạch định một cách không thiết thực và khác hẳn với những xã hội đang hiện hữu; ý của tôi là một xã hội được chia thành theo tầng lớp thống trị và một tầng lớp lao động, một xã hội với dòng chảy chính trong guồng máy của nó là lòng tự ái."
Xin chú ý rằng: việc Malthus bác bỏ những lý lẽ của Malthus và lòng tin của ông về một chế độ tư bản không tránh khỏi là những trọng tâm xuyên suốt giả định của ông (một giả định xuyên suốt trong những lập luận của ông), giả định này cho rằng theo quy luật tự nhiên, con người sẽ sinh sản một cách nhanh chóng theo số thu nhập gia tăng của họ. Dĩ nhiên đây chỉ là ảo tưởng mà thôi bởi nó đã được chứng minh bằng lịch sử (thời kỳ "chuyển tiếp nhân khẩu học" giảm tỷ lệ sinh cùng với gia tăng thu nhập) và sự chon lựa của người phụ nữ sinh ít con hơn để họ có được nhiều quyền lợi hơn. Do đó Malthus đã kết thúc cuộc bút chiến của mình trong chuơng 15 với lời cảnh báo như sau:
"Do đó, cho đến khi ngài Godwin có thể đưa ra một kế hoạch mang tính thực tiễn mà theo đó có sự phân chia lao động công bằng trong xã hội, thì những lời công kích đối với vấn đề lao động - nếu xãy ra khuynh hướng như thế, tất yếu sẽ phát sinh nhiều tệ nạn hơn ở hiện tại mà còn làm cho chúng ta không phù hợp với một xã hội công bằng mà ông ta đang mong đợi như cái ngôi sao Bắc Đẩu của ông hay như một kim chỉ nam - ông nghĩ là thế, khi xác định bản chất tự nhiên và khuynh hướng của những hành động của con người. Một thuỷ thủ đang hành động theo ngôi sao Bắc Đẩu như thế thì anh ta đang đứng trước nguy cơ bị đắm tàu."
Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản 3

Malthus với vấn đề "tình trạng thừa thải quá mức" hay "cơn khủng hoảng"
Tuy những lý lẽ của Malthus phần lớn có biện hộ cho chế độ tư bản trong xã hội, nhưng ông vẫn không mù quáng đến nỗi không thấy được mô hình này đang phát triển không đều và ông chính là người đầu tiên nhận thấy được nó đang đối mặt với một vấn đề tái diễn là thị trường đã quá tải và vấn đề những cơn khủng hoảng thừa, tức là xãy ra tình trạng thất nghiệp, sự suy sụp về tài chính, v.v.… Đối với những nhà kinh tế cổ điển cùng thời thì quan điểm này của ông bị xem như một quan điểm lập dị.
Như chúng ta đã biết qua với Adam Smith, tầm nhìn của các nhà kinh tế cổ điển chỉ trong phạm vi là thị trường và cơ cấu định giá của nó hoạt động nhằm mang đến sự phân bổ những nguồn tài nguyên và hàng hoá cho xã hội một cách trơn tru dễ dàng. Có thể đây là tình trạng sụp đổ tạm thời hoặc giả chỉ đối với ngành mậu dịch, ví dụ như các nhà sản xuất các sản phẩm may mặc có thể ước lượng nhu cầu về mặt hàng của họ quá mức và do đó tạm thời "cung cấp quá mức" cho thị trường, nhưng trong trường hợp như vậy người ta sẽ tin rằng mức cung gia tăng liên quan đến mức cầu sẽ làm mức giá giảm xuống và cũng sớm làm cho cung liên kết trở lại với cầu. Hoặc giả, giai đoạn tích luỹ quá nhanh có thể gia tăng mức lương trên mức bình thường, nhưng theo như Smith và Malthus, mức lương gia tăng như thế sớm muộn cũng dẫn đến tình trạng gia tăng nguồn cung lao động, và từ đó lại đẩy mức lương giảm lại.
Jean-Baptiste Say (1767-1832) là người thể hiện rõ tầm nhìn cổ điển này, ông cho rằng thị trường có thể loại bỏ tình trạng khủng hoảng, ông là một nhà kinh tế học người Pháp và rất ngưỡng mộ Adam Smith. Say đưa ra nhiều lập luận về vấn đề này trong chương XV, quyển I của tác phẩm Trait d'economie politique của ông:
"Chú ý rằng một sản phẩm sau khi làm ra sớm muộn cũng được tung ra thị trường mà trong đó đã đầy các sản phẩm khác. Khi nhà sản xuất đó hoàn tất sản phẩm của mình, ông ta chỉ quan tâm đến việc làm sao để bán sản phẩm ra ngoài ngay lập tức để cho nó không bị mất giá nếu bị tồn kho. Ông ta cũng không ít quan tâm đến việc dùng số tiền mà ông ta có để sản xuất ra nó; bởi vì giá trị của đồng tiền cũng sẽ bị giảm. Nhưng cách duy nhất để tiêu thụ số tiền đó là mua món hàng khác. Do vậy chỉ trong trường hợp tạo ra một sản phẩm sẽ lập tức mở ra một lối thoát cho những sản phẩm khác."
Những phát biểu như thế đã phổ biến đến tầm nhìn của thị trường và dẫn đến mọi người thườg xuyên tham khảo cái gọi là "Quy luật Say", nghĩa là "mức cung sẽ tự tạo ra mức cầu cho riêng nó" (supply creates its own demand) điều này như một chân lý hiển nhiên về hành vi của nền kinh tế thị trường nói chung -- nếu không phải nằm trong trường đặt biệt. Mặt khác, Malthus xem xét đến thực tiễn vấn đề tư bản chủ nghĩa trong thời của ông ta và thấy được những vấn đề đang nổi cộm lên mà sau này những nhà kinh tế gọi là "chu kỳ kinh doanh" hay bằng một cái tên ít lạc quan hơn "những cơn khủng hoảng". Ông thấy rằng những chu kỳ hay cơn khủng hoảng như thế không có giới hạn trong một thị trường đặc biệt nào cả, cũng như Smith, ông tin rằng nếu chúng xãy ra thường xuyên thì chính những người như công nhân, thương buôn, ngân hàng, v.v.... sẽ phải gánh hậu quả. Ông lập luận rằng dù có phải như vậy hay không thì con người phải nhận thức được sự tồn tại về những gì đang tái diễn trở lại, những gì mà ông gọi là "khủng hoảng thừa phổ biến" và định nghĩa của nó như sau:
"Khủng hoảng thừa được xem là phổ biến bắt nguồn từ nguồn cung thừa thải quá mức hay do mức cầu giảm đi, một lượng hàng hoá đáng kể bị giảm giá trị xuống thấp hơn cả chi phí cơ bản được bỏ ra để sản xuất ra nó"
Quan điểm của Malthus về "khủng hoảng thừa" gây nên một cuộc tranh luận giữa ông và những người bạn của ông cũng như với nhà kinh tế David Ricardo - đồng nghiệp của ông. Như chúng ta thấy rằng đây không chỉ là vấn đề duy nhất mà ông và Ricardo không có cùng một quan điểm.
David Ricardo
Trong khi Thomas Malthus giảng dạy tại tại một ngôi trường do một công ty lớn nhất thời đó lập ra, thì David Ricardo (1772-1823) là con của một doanh nhân và chính ông cũng là một doanh nhân giàu có và chơi cổ phiếu. Trong số những nhà kinh tế ít quan tâm đến lịch sử tư duy kinh tế, Ricardo được xem như một nhà kinh tế "cổ điển" quan trọng xếp thứ hai sau Adam Smith. Sở dĩ ông có danh tiếng như thế một phần bắt nguồn từ những quan điểm có giá trị của ông về những vấn đề quan trọng, nhưng nguyên nhân chính là bắt nguồn từ cách mà ông đưa ra những lý lẽ của mình dưới hình thức những mô hình kinh tế về mặt lý thuyết. Không giống như những bài viết của Smith hay thậnm chí của Malthus, những bài viết của Ricardo được thể hiện tương đối xúc tích ngắn gọn mà không có nhiều minh hoạ bằng những chi tiết lịch sử hay nói lạc hướng sang những vấn đề thứ yếu khác. Trong cuốn Tài sản quốc gia của mình, Smith có nói lướt qua khía cạnh lịch sử con người, thì trong cuốn Những Quy Luật Về Kinh Tế Chính Trị Và Hệ Thống Thuế, Ricardo chỉ tập trung vào vấn đề của mình. Căn cứ vào sự yêu chuộng các mô hình mang tính chính xác của các nhà kinh tế cùng thời, ta dễ dàng thấy được nguồn gốc những gì mà ông ta thường bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên ngoài những vấn đề về phương pháp luận, thì những điểm nổi bật các tác phẩm của Ricardo chính là nó đã chuyển từ quan điểm của Smith tập trung vào việc làm ra tài sản bằng phương pháp đầu tư và tích luỹ nay chuyển sang một hướng khác là tập trung vào việc phân phối những gì được sản xuất ra. Ricardo đã nêu rõ điều này ngay trong phần mở đầu của quyển Những Quy Luật:
Để xác định những quy tắc nào sẽ chi phối đến việc phân phối này phải dựa vào vấn đề chính trong kinh tế chính trị: khi khoa học ngày càng phát triển cùng với những bài viết của Turgot, Stuart, Smith, Say, Sismondi, và những người khác, thì họ chỉ cung cấp được một lượng thông tin ít ỏi liên quan đến những vấn đề tự nhiên thường ngày như tô thuế, lợi nhuận, và tiền lương."
Nói cách khác, vấn đề mà Ricardo quan tâm đến là làm sao xác định được sự tiến triển tương đối của tô thuế, lợi nhuận, và tiền lương qua nhiều năm. Như chúng ta thấy, Smith đã nói rằng tiền lương có khuynh hướng thay đổi bất thường theo mức sống và lợi nhuận có khuynh hướng giảm và tăng chậm vì nền kinh tế đã phát triển hoàn chỉnh, nhưng ông đã không đưa ra một lý thuyết hợp lý nào về những khuynh hướng như thế. Mặc khác, đối với vấn đề những giới hạn khả năng sản xuất nông nghiệp theo sự phát triển của dân số mà ông đang quan tâm, Malthus đã đưa ra một lý thuyết về khuynh hướng chuyển biến của tô thuế - Ricardo cũng chấp nhận thuyết này, ông cho rằng do ngành trồng trọt chuyển từ những mảnh đất màu mở sang những mảnh đất ít màu mở hơn cho nên tỉ số sinh lời giữa chúng sẽ trở nên chênh lệch nhau và do đó tô thuế giữa chúng cũng sẽ khác nhau.
Trong chương 2 quyển Những Quy Luật, Ricardo có nói:
"Sở dĩ như vậy là do số lượng đất đai bị hạn chế, độ màu mở thì không đồng đều và cũng do trong quá trình phát triển của dân số, những loại đất xấu hay nằm ở những vị trí bất lợi đều được sử dụng cho mục đích trồng trọt, mà khi sử dụng những loại đất như thế thì bao giờ cũng phải trả thuế cả. Trong quá trình phát triển của xã hội, khi loại đất thứ cấp được đưa vào sử dụng cho mục đích trồng trọt, thì tô thuế lập tức bắt đầu tính với loại đất có độ phì nhiêu nhất, và số lượng tô thuế bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào sự khác biệt ở độ màu mở giữa hai loại đất này."
Cũng tương tự vậy, Ricardo cho rằng nếu vẫn đầu tư thêm vốn và nhân công cho những mảnh đất đang sử dụng, dù cho lợi nhuận có giảm thì tô thuế vẫn phát sinh nhiều:
"Trước khi đất loại 2, 3, 4, hay 5 hay đất xấu bạc màu được sử dụng trong nông nghiệp thì vốn có thể đầu tư một cách hữu hiệu vào những loại đất như thế những loại đất đã được sử dụng vào mục đích trồng trọt, điều này vẫn thường xãy ra và thực chất nó rất phổ biến. Có lẽ người ta sẽ nhận thấy rằng bằng cách tăng gấp đôi số vốn vào đất loại 1, mặc dù sản lượng không tăng gấp đôi, thì nó cũng không tăng đến 100 góc tạ (ở Anh; bằng 12,70 kg), nhưng cũng tăng khoảng 85 góc tạ, và sản lượng này vượt xa sản lượng mà đất loại 3 mang lại khi được đầu tư cùng một số vốn như vậy. Trong trường hợp như thế, số vốn tốt hơn nên đầu tư vào những loại đất mà mình đã sử dụng và số tô thuế phát sinh sẽ bằng nhau; bởi vì số tô thuế chính là hiệu số giữa sản lượng đạt được với số lượng tương ứng về vốn và nguồn lao động."
Do sự tích luỹ tư bản cùng với sự phát triển ồ ạt của dân số đã khiến cho ngành trồng trọt liên tục chuyển từ những mảnh đất tốt hơn sang những mảnh đất nghèo nàn hơn, hay do chi phí đầu tư vào số lượng đất giới hạn ngày càng tăng, thì hậu quả tất yếu là làm giảm lợi nhuận và làm tô thuế liên tục gia tăng, và do đo một phần sản lượng của quốc gia sẽ vào tay của tầng lớp địa chủ.
Nhưng Ricardo đồng tình với quan điểm của Malthus là tiền lương ở mức vừa đủ sống cố định hay không (hoặc giả tăng chậm do yêu cầu tái sản xuất của tầng lớp lao động gia tăng) là do sự phát triển của dân số. Nói cách khác, nếu tiền lương tăng so với "mức giá tự nhiên" của sức lao động (tức là so với mức vừa đủ sống) thì cuộc sống người công nhân sẽ khá hơn, số lượng công nhân sẽ tăng và tiền lượng lại sẽ giảm. Tương tự thế, nếu lương giảm dưới mức bình thường, thì số lượng công nhân sẽ giảm và lương lại sẽ tăng. Đây cũng là vấn đề mà Ricardo quan tâm (trong chương 2 quyển Những Quy Luật của ông):
Đó là khi giá lao động thị trường vượt qua mức giá bình thường của nó, điều kiện làm việc tốt và vui vẻ, người lao động có quyền đòi hỏi nhiều hơn về những nhu cầu thiết yếu cho họ và tận hưởng cuộc sống, và do đó họ có thể nuôi cả một gia đình đông đúc khoẻ mạnh. Tuy nhiên với những điều kiện động viên như thế - lương tăng cao cho số người tăng lên - thì số lượng công nhân tăng lên, lương lại giảm xuống mức cơ bản, và thật vậy từ sự phản tác dụng đôi khi làm nó giảm đi.
Khi giá lao động thị trường giảm xuống so với mức cơ bản, điều kiện làm việc thì kém: do đó cái nghèo đã tước đi những thứ tiện nghi thiết yếu đã trở thành quá quen của họ. Và nảy sinh ra tình trạng sau đó, sự thiếu thốn của họ làm giảm đi số nhân công, hay nói cách khác nhu cầu về lao động tăng lên, giá lao động thị trường lại tăng so với mức giá cơ bản, và người lao động sẽ có được những tiện nghi vừa phải mà mức lương cơ bản mang đến."
Lưu ý: do đó Ricardo đồng tình quan điểm với Malthus khi công kích Luật Tế Bần của Anh và kêu gọi huỷ bỏ nó hoàn toàn và tạo một thị trường lao động tự do.
Do đó nếu tô thuế tăng và lương giữ nguyên không đổi, thì lợi nhuận sẽ bị mức tô thuế tăng và mức lương giữ nguyên đó (hoặc tăng) chèn ép và sẽ giảm đi. Bởi vì lợi nhuận là phương tiện dùng cho đầu tư nên với khuynh hướng giảm lợi nhuận như thế sẽ thật sự làm cho tình trạng sản xuất càng trở nên trì trệ.
Như Ricardo kết luận trong chương 6 về vấn đề lợi nhuận:
"Khuynh hướng tự nhiên của lợi nhuận là giảm xuống do quá trình phát triển của dân số và tài sản, phần lượng thực phẩm tăng thêm chỉ có thể đạt được do sự hy sinh ngày càng nhiều của tầng lớp lao động. […] tỉ lệ lợi nhuận thấp như thế sẽ kìm hãm sự tích luỹ và hầu như là kìm hãm sản lượng chung của cả nước, sau khi trả lương, thì sẽ là tài sản của chủ đất và của những người thu thuế thập phân và những loại thuế khác."
Do vậy, những lý thuyết về lương, lợi nhuận, và tô thuế của Ricardo làm cho viễn cảnh tương lai của tư bản chủ nghĩa thậm chí còn ảm đạm hơn những gì mà Malthus nói. Không chỉ người nghèo không thể giàu có mà cả những nhà tư bản cũng thế. Chỉ có địa chủ là hưởng lợi và với sự phát triển của lợi nhuận như vậy thì chỉ làm cho họ trắng tay do lợi nhuận giảm cũng làm cho đầu tư giảm theo và sản xuất đình trệ.
Vấn đề "khủng hoảng thừa" Ricardo đã đồng tình với Quy Luật Say, và dùng nó như một lập luận chống lại ý kiến cho rằng khủng hoảng được tạo ra trong quá trình tích luỹ thông, mà Keynes gọi là "tổng mức cầu không thoả", tức là tổng mức cầu cho các loại hàng hoá không được thoả mãn đầy đủ dẫn đến sự cung ứng những loại hàng này cho thị trường. Ông ta cũng không sai khi nhận ra một vài thị trường có thể bị khủng hoảng thừa -trong thời của ông ta nó là vấn đề thường bị tái diễn - nhưng khủng hoảng đó không trở thành cuộc khủng hoảng phổ biến rộng khắp.
Trong quyển Những Quy Luật, chương 21 về "Những Hậu Quả Của Tích Luỹ Lợi Nhuận Và Lợi Tức", ông có đề cập đến vấn đề này:
Chúng ta dùng chính sản xuất hay dịch vụ để mua sản xuất; tiền chỉ là một phương tiện trao đổi trung gian hữu hiệu mà thôi. Khi một sản phẩm nào đó được làm ra quá nhiều thì thị trường của sản phẩm đó sẽ bị khủng hoảng thừa, để không phải hoàn lại số vốn đã bỏ ra cho sản phẩm đó; nhưng đây không phải là trường hợp chung cho tất cả các loại hàng hoá; mức cầu của bắp ngô giới hạn với số người ăn, mức cầu của giày dép và áo khoát giới hạn với số người mặc; thế nhưng cả
cộng đồng hoặc một phần có thể muốn tiêu thụ ngô cũng như nón và giày dép nhiều hơn. Một số người có thể tiêu thụ nhiều rượu hơn nếu họ có khả năng mua nó. Còn những người đã tiêu thụ đủ rượu rồi thì lại muốn mua hoặc nâng cấp chất lượng đồ đạc trong nhà. Những người khác thì muốn trang trí lại khu vườn hay xây nhà của họ to thêm. Ước muốn làm được những điều như thế đã khắc sâu vào mỗi con người chúng ta; để thực hiện chẳng cần gì ngoài phương tiện, để có được phương tiện chẳng cần gì ngoài gia tăng sản xuất. Nếu tôi có thức ăn và những thứ cần thiết tuỳ nghi sử dụng, thì tôi không phải chờ đợi để có được chúng như những người công nhân - những người mà đã đem đến cho tôi quyền được sở hữu những gì hữu dụng đối với tôi và những gì tôi muốn" (đây là vấn đề tôi quan tâm)
Việc bác bỏ khả năng khủng hoảng thừa là phổ biến lại bị Malthus bác bỏ bằng những lập luận riêng của mình, khi nhìn lại, đã biến ông trở thành những người khởi đầu cho dòng lập luận thiên về lý thuyết, những lập luận liên quan đến tầm quan trọng của vấn đề tích luỹ tổng mức cầu thoả đáng, những lập luận này hoạt động xuyên suốt từ thời của ông với những bài phê bình chủ nghĩa tư bản của Marx và John Hobson cho đến thời đại với những bài viết của những vị cứu tinh như John Maynard Keynes.
Trong phần III chuơng I tập I quyển Những Quy Luật Kinh Tế Chính Trị, ông nói lên sự phản bác của mình như sau:
"Một số tác giả tài năng nghĩ rằng mặc dù một loại hàng hoá nào đó dễ dàng bị khủng hoảng thừa, nhưng không phải tất cả các mặt hàng đều như vậy; bởi vì theo như quan điểm của họ về vấn đề này thì hàng hoá luôn được trao đổi bằng hàng hoá, một nửa này sẽ cung cấp cho thị trường dành cho nửa còn lại, và do đó sản xuất chỉ thoả mản cho một nguồn nhu cầu duy nhất, một sản phẩm có mức cung quá thừa chứng tỏ rằng mức cung cho một số sản phẩm khác lai thiếu hụt, và đối với trường hợp mức cung chung thì không xãy ra như vậy.[…] Tuy nhiên, học thuyết này trong khi nó được áp dụng nhiều nhưng đối với tôi nó hoàn toàn vô căn cứ, và hoàn toàn trái với những nguyên tắc về luật cung và cầu."
Trong phần đó ông đặt ra một vấn đề liệu có khả năng gia tăng nguồn tiền tiết kiệm và đầu tư (tích luỹ) đối với sự phát triển có bị giới hạn gì hay không. Và câu trả lời của ông là vẫn có một số giới hạn nào đó, những giới hạn này có là do khi nguồn tiền tiết kiệm gia tăng cùng với chi phí giảm vì nhu cầu giảm.
Ông chỉ ra rằng trong quyển Những Quy Luật của mình Ricardo đã thừa nhận nếu lương tăng ,số lợi nhuận giảm dần, và những nhà tư bản thì tìm kiếm cho mình những khoản khác bù vào đó về cơ bản là giảm bớt chi tiêu nhằm có được thặng dư để đầu tư, thì việc giảm nhu cầu tiêu thụ của họ gắn liền với sự tích luỹ và gia tăng mức cung , cả ba vấn đề này có thể là nguyên nhân dẫn đến "những cơn tổng khủng hoảng thừa". Tuy nhiên, Ricardo lại xác nhận rằng "những gì được nói trên không phải là một nguyên tắc chung", tức là cơn khủng hoảng chung là không thể xãy ra. Ngược lại Malthus nói là do "một nước có thể gia tăng lượng tiền nhằm duy trì nguồn lao động nhanh hơn là gia tăng dân số" cho nên trường hợp đặc biệt của Ricardo chẳng phải là đặc biệt gì và có thể tái diễn đều đặn.
Đối với vấn đề này, Malthus cũng đưa thêm vào một số lập luận khác: giả sử năng xuất tăng và hàng hoá giảm giá chẳng phải làm cho nhu cầu hàng hoá tăng lên mà là tăng nhu cầu để có thời gian rảnh rổi ("sự biếng nhác"). Ông nói khuynh hướng thích có thời gian nhàn rổi như thế (và chúng ta biết rằng ông nghĩ là người công nhân ghét phải làm việc) nghĩa là cung sẽ vượt cầu và "một cơn khủng hoảng chung" sẽ xãy ra.
Sau cùng Malthus lập luận: thật sai lầm khi cho rằng -như Ricardo cho là như thế -- việc chi tiêu số tiền tiết kiệm dành cho tích luỹ sẽ tạo ra nhu cầu gia tăng sản luợng khi được đầu tư. Lấy nông dân và nhà sản xuất làm ví dụ, ông nói là số tiền tiết kiệm của họ gia tăng thì nhu cầu của mỗi người về hàng hoá của người còn lại sẽ giảm và sẽ tạo nên cơn khủng hoảng chung. Dĩ nhiên trong lập luận này Malthus lại không phân biệt được "mặt hàng sản xuất" và "mặt hàng tiêu dùng" và do đó không thể đánh giá đúng mức cầu cho "mặt hàng sản xuất" -- một sai lầm thông thường trong lịch sử những thuyết "tiêu thụ dưới mức" của trong cơn khủng hoảng.
Bàn về vấn đề Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô vào Anh Quốc
Một luận điểm không thống nhất giữa Malthus và Ricardo về một vấn đề khác - một vấn đề gây nhiều tranh cải trong xã hội - chính là Luật hạn chế nhập khẩu ngô - mà theo luật này cũng hạn chế nhập khẩu cả lúa mì - có nên bị giảm bớt hay loại bỏ hay không. Hiện tại, những việc có liên quan đến tranh cải này nên được làm sáng tỏ dựa vào những vấn đề xung đột trong Tổ Chức Thuơng Mại Thế Giới (WTO) cũng như những nổ lực của tổ chức này nhằm tiến đến giảm bớt hàng rào mậu dịch.
Ngay sau những cuộc chiến tranh của Napoleon, những người bạn thuộc nghị viện của tầng lớp địa chủ đã giới thiệu luật này vào năm 1815 nhằm giử cho mức giá ngũ cốc ở mức cao, những loại ngũ cốc này chiếm nhiều ưu thế trong thời gian xãy ra chiến tranh do mậu dịch bị chiến tranh làm cho đình trệ. Giá ngũ cốc duy trì ở mức cao liên tục như thế gây hại cho cả người công nhân - những người phải trả tiền mua bánh mì, và cả nhà sản xuất - những người phải trả đủ lương cho công nhân mua bánh mì, và gây tôn hại đến những ai có khả năng xuất khẩu nhưng lại bị giới hạn bởi những nước không thể bán lúa mì sang nước Anh.
Sau khi thông qua sửa đổi năm 1832 với sự tán đồng của tầng lớp tiểu tư sản và thương buôn và buộc nghị viên phải quan tâm chú ý đến họ, họ bắt đầu lập ra tổ chức nhằm kêu gọi bãi bỏ đạo luật đó. Một tổ chức chống đạo luật đó được thành lập vào năm 1836 và vào năm 1839 trở thành Hội Liên Hiệp Chống Luật Hạn Chế Nhập Ngô. Chiến dịch này hoạt động cho đến năm 1846 vì khi đó xãy ra nạn đói lớn ở Ái Nhĩ Lan, và chính phủ đã huỷ bỏ đạo luật này. Nạn đói này xãy ra thường không phải do thiếu lương thực mà do người công nhân không có đủ tiền để mua. Không đủ tiền mua lương thực do hai nguyên nhân: đầu tiên nguyên nhân trực tiếp của cái nghèo là mùa màng thu lợi chính của Ái Nhĩ Lan thất bát do sâu bệnh, thứ hai - mang tính lịch sử, là do đế quốc Anh xâm chiếm Ái Nhĩ Lan, chiếm hết đất của họ chỉ chừa lại một phần đất nhỏ để họ trồng trọt mà thôi. Xin lưu ý rằng, trang "Web Victoria" không nói sâu về nạn đói mà chỉ tập trung vào Anh, đầu tiên họ phớt lờ đến nạn đói này, sau đó lại cung cấp một phần cứu trợ ít ỏi và sau đó gửi quân sang kiểm soát vùng thuộc địa này. Kết quả từ những chính sách của đế quốc Anh là cái chết hàng loạt của những người dân thuộc địa: dân số Ái Nhĩ Lan từ 8,2 triệu người giảm xuống còn 6,5 triệu trong vòng mười năm. Dù sao đi nửa, như trang web này có nói đến, việc huỷ bỏ bộ luật này cũng chẳng giúp gì cho người Ái Nhĩ Lan trong cơn khủng khiếp này bởi vì thậm chí khi giá thực phẩm hạ xuống thấp nhưng họ cũng vẫn không đủ tiền mua.
Chính những sự kích động chống đối lại bộ luật gây nên cuộc tranh cãi giữa Malthus và Ricardo. Cả hai người họ sớm đi vào cuộc tranh luận, đầu tiên là Malthus với bài luận Luật Hạn Chế Nhập Ngô năm 1814 và một bài khác Một Số Lý Do Cho Quan Điểm Về Chính Sách Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô Từ Nước Ngoài năm 1815 và cùng năm đó Ricardo đưa ra bài phản luận: Luận Về Những ảnh Hưởng Mức Giá Thấp Của Ngô Đến Lợi Nhuận Vốn.
Trong khi bài luận đầu vào 1814 của Malthus cố gắng thể hiện và đánh giá cả những lý lẽ trái ngược nhau, thì bài thứ hai rõ ràng nghiêng về ủng hộ cho bộ luật này. Mặc dù ông nhận ra những ưu thế thông thường mà mậu dịch tự do mang đến bao gồm cả cách mà khi nhập khẩu lúa mì tăng thì làm cho giá ngũ cốc cũng như bánh mì giảm, nhưng Malthus cũng cho rằng những trường hợp đặc biệt như vậy đã làm cho thuế xuất nhập khẩu tăng cao. Những trường hợp đặc biệt mà ông đưa ra đều là những rủi ro đối với những quốc gia khác đặc biệt là Pháp với sản lượng ngũ cốc khổng lồ, những quốc gia này cố gắng xuất khẩu ngũ cốc ra nước ngoài nhưng xuất khẩu sang Anh thì có thể bị cắt giảm. Hay nói cách khác, ông cho rằng, người Anh phải lãnh chịu hậu quả khi theo đường lối tự do mậu dịch trong khi những nước khác thì không. Khi đưa ra trường hợp thế này, ông cũng nêu trường hợp cắt giảm nhập khẩu ngũ cốc vào Anh trước đó, tức là trong suốt thời gian nổ ra chiến tranh thời Napoleon, và cho thấy những hậu quả từ việc tăng giảm giá cũng như trữ lượng ngũ cốc một cách đột ngột và mạnh mẽ.
Để phản luận lại Malthus, Ricardo bàn về vấn đề tô thuế -- nhưng nhìn chung cũng đồng ý với Malthus về vấn đề này - và tiếp tục tranh luận rằng mức giá thực phẩm và tô thuế phải nộp cho địa chủ quá cao khi đó chỉ làm lợi cho họ và gây tổn hại cho những người khác: "lợi ích của tầng lớp địa chủ luôn đối lập với lợi ích của những tầng lớp khác trong xã hội. Ông ta chẳng bao giờ có được một cái nhìn bao quát, bởi vì khi đó thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ trong khi mọi người khác lại có thể mua được thực phẩm với giá rẻ."
Những gì Ricardo lưu tâm trong vấn đề mức giá cao của thực phẩm là chính nó ban đầu được hỗ trợ bởi sự thiếu vắng số ngũ cốc nhập khẩu suốt những năm chiến tranh, và sau đó lại được Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô hậu thuẫn và gây tác động tiêu cực đến lợi nhuận vốn: "chúng ta có thể dễ dành chứng minh được rằng trong mỗi xã hội mà khi tài sản cũng như dân số của nó tăng trưởng độc lập với những tác động do mức lương nhiều hay ít gây ra, thì lợi nhuận chung phải giảm trừ khi nông nghiệp được cải tiến, và có thể nhập khẩu ngô với giá rẻ hơn." Do vậy, tốt hơn hết là giữ nguyên mọi thứ nhưng giá ngũ cốc phải rẽ hơn thông qua tự do nhập khẩu bởi vì nó sẽ giúp làm giảm mức lương và tăng lọi nhuận.
Nhưng Malthus cho rằng không phải mọi thứ đều được giữ nguyên không đổi, mà ngược lại còn gây ra mối nguy hại cho việc nhập khẩu ngũ cốc vào Anh và do đó nền kinh tế Anh có nguy cơ bị tác động tiêu cực mạnh mẽ. Về mặt này, Ricardo đáp lại rằng: thứ nhất, một khi lượng ngũ cốc xuất khẩu sang Anh đạt được trữ lượng lớn trở thành một việc bình thường rồi thì không có nước nào có thể cắt giảm được trữ lượng xuất đó nữa trừ khi mùa màng thất bái hay có bạo loạn xãy ra (ông có trích dẫn ví dụ về hậu quả của việc Bonaparte cắt giảm lượng xuất ngũ cốc của Nga);thứ hai, cũng giống như thời đó nước Anh vẫn có thể có được số ngũ cốc từ những quốc gia khác (như Mỹ đã nhận ra điều này khi nó phong toả không cho bán ngũ cốc sang Afghanistan trong suốt thời kỳ mà Afghanishtan còn chịu sự ảnh hưởng của Xô-Viết) đặc biệt là khi Anh thi hành chính sách tự do mở rộng thị trường thì những nhà sản xuất từ các nuớc kéo nhau phát triển sản xuất với một mục đích duy nhất là xuất khẩu qua Anh; thứ ba, sự giảm sút trong sản xuất nông nghiệp của Anh do giá ngũ cốc rẽ có thể được làm lắng dịu lại bằng chính sách mậu dịch ngày càng tự do hơn và dù cho có rút vốn ra khỏi ngành nông nghiệp và đầu tư vào sản xuất các mặt hàng có giá trị và dù cho chi tiêu của địa chủ có giảm đi do tô thuế giảm thì cũng có thể lấy mức chi tiêu gia tăng từ lợi nhuận và lương để bù vào.
Như đã được đề cập ở trên, mặc dù Ricardo và những người chống đối lại luật hạn chế nhập ngô nhìn chung được sự ủng hộ của những học giả trong những cuộc tranh luận, nhưng quyền hạn của tầng lớp địa chủ chính là để duy trì bộ luật hạn chế nhập ngô, thay thế cho những bộ luật khác trong vòng 30 năm.

Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com