Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Lời cầu nguyện của Alan đêm Noel



(Bài Viết Của Og Mandino)
Khi đối diện với một thảm kịch tang thương hay một tai họa hiểm nghèo, ai mà không hướng lời van xin về một Đấng Tối Cao? Ai mà không cầu nguyện khi bị vây hãm với thần chết, với bệnh hiểm, với những huyền bí ngoài sự hiểu biết của con người? Cái trực giác sâu kín này đã đến từ đâu, mà mỗi con người hay thú vật đều phải dùng đến trong những giờ phút khẩn cấp?

Mắt chúng ta sẽ tự động chớp khi có một bàn tay đưa ngang. Chân cẳng chúng ta sẽ tự động giật khi có ai gõ vào đầu gối. Đe dọa một người nào bằng cái “Hù” bất chợt, miệng hắn sẽ tự động nói “Trời ơi”. Cái trực giác tự động này từ đâu tới?

Dù tôi không phải là một con chiên hay một tín đồ rất ngoan đạo, tôi cũng nhận hiểu cái huyền diệu cao cả này của thiên nhiên. Tất cả mọi sinh vật trên trái đất này, kể cả con người, đều chia chung các trực giác về sự cầu nguyện.

Và lời cầu nguyện chỉ là một van xin lớn tiếng hướng về một Đấng Tối Cao. Khi thiên nhiên đã ban cho con lừa, con chim, con người khả năng và trực giác để cất cao lời van xin, thiên nhiên cũng đã dự trù là những lời van xin này đang được lắng nghe bởi một quyền lực cao lớn hơn mọi sinh vật và đủ quyền sức để đáp ứng lời van xin đó. Từ hôm nay, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ van xin. Nhưng lời câu nguyện của tôi không bao giờ là van xin để được giúp đỡ mà van xin để được hướng dẫn.

Tôi sẽ không bao giờ cầu nguyện để tìm kiếm những vật chất tư hữu cho tôi.Tôi không xin là cho quanh tôi nhiều người hầu kẻ hạ lo từng miếng ăn thức uống.Tôi không xin những căn nhà tráng lệ với đầy đủ tiện nghi.Tôi sẽ không bao giờ nghĩ là lời nguyện cầu của tôi sẽ mang đến tiền bạc, tình yêu, danh vọng, chiến thắng, thành công hay hạnh phúc.Tôi chỉ xin cho có được sự hướng dẫn, cho tôi thấy được phương thức, đường lối để tạo dựng những thành quả và như thế, lời cầu nguyện của tôi sẽ luôn luôn được đáp ứng.

Sự hướng dẫn mà tôi tìm kiếm có thể sẽ đến, hay có thể không đến, nhưng cả hai trường hợp, tôi đều đã được trả lời. Nếu đứa bé xin cha nó một miếng bánh mà không được, người cha cũng đã trả lời cho nó rồi.

Lời cầu nguyện của tôi sẽ như sau:

“Đấng Tối Cao, xin Ngài giúp đỡ con. Mỗi ngày con bước ra ngoài thế gian, con thấy rất cô đơn và yếu đuối. Không có sự hướng dẫn của Ngài con sợ con sẽ lạc lối và xa dần những đường hướng cho con tìm được hạnh phúc và thành công.

Con không xin Ngài bạc vàng châu báu, hay những cơ hội nằm trong khả năng con. Con chỉ xin Ngài hướng dẫn cách thức để con gây dựng được khả năng để nắm lấy những cơ hội.

Ngài đã dậy con sư tử cách thức săn mồi để sinh tồn bằng bản năng. Xin dạy con cách thức sinh tồn và thịnh vượng trong tình yêu để con hãnh diện là con sư tử trên thương trường.

Giúp cho con tìm được sự khiêm tốn bằng trở ngại và thất vọng; nhưng cũng giúp cho con thấy được cái huy hoàng của chiến thắng.

Hãy trao cho con những công việc mà nhiều người đã không làm được; nhưng dậy con cách thức gạn lọc những kinh nghiệm thất bại của họ để con có thể thành công.Thử thách con với những tai họa để tâm hồn con được rèn luyện nhưng nhớ cho con cái can đảm để cười trước những lỗi lầm.

Cho con sống đủ ngày tháng để con đạt đến mục tiêu nhưng giúp con sống mỗi ngày như đó là ngày cuối cùng của đời con.

Chỉ con cách thức ăn nói để có được hiệu quả khi giao tiếp; nhưng dạy con cách im lặng trước những thị phi vô bổ của tha nhân.

Dạy con cái kỷ luật với thói quen không bao giờ bỏ cuộc; nhưng cũng cho con thấy tất cả đều có một tỷ lệ xác suất là tỷ lệ trung bình. Cho con cái trực giác bén nhậy để nhận diện được những cơ hội; nhưng nhớ dậy con cái kiên nhẫn để tập trung được năng lực.

Dạy con cách thức tạo cho mình rất nhiều thói quen tốt để bớt dần những thói quen xấu; nhưng nhớ cho con lòng hỷ xả để thông cảm với cái yếu đuối của tha nhân.

Dạy con bài học về đau khổ để con hiểu rằng: “Mọi sự rồi cũng qua đi” nhưng cho con cái hạnh phúc ngồi đếm những ân lộc mỗi ngày.

Đẩy con trực diện với hận thù để con không ngu dốt về thực tại; nhưng cho lòng con lúc nào cũng đầy tình yêu để biến kẻ thù ghét thành bạn bè.

Nhưng tất cả mọi sự đều là do ý Ngài. Con chỉ là một quả nho, nhỏ bé và cô đơn, bám víu vào cái cành khẳng khiu gọi là đời sống. Nhưng Ngài đã sáng tạo con thành một hiện hữu độc đáo; như vậy chắc Ngài đã dành cho đời con một con đường đặc biệt. Xin hướng dẫn con. Xin giúp con. Cho con tìm thấy con đường của mình.

Cho con trở thành toàn vẹn cái con người mà Ngài đã dự định khi ban cho con đời sống này. Cái hạt giống mà Ngài đã ươm trồng là con, xin được tăng trưởng để trở thành một loài hoa quả như ý muốn của Ngài.

Giúp cho con trở thành một con người đúng nghĩa.”

Nguồn: gocnhinalan.com

Người Việt học được gì ở những cuốn sách “Dạy làm giàu”?



Đa phần người Việt tìm mua sách “dạy làm giàu” bởi cách PR hoành tráng của đơn vị xuất bản hoặc a dua theo đám đông (khi thấy họ có mình cũng phải có), dù cho không hiểu gì nhưng vẫn cố đọc. Tất nhiên khi người đọc không có kế hoạch, có suy nghĩ hay ý tưởng thì sẽ chẳng bao giờ hiểu được công thức làm giàu của người khác và luôn tự hỏi tại sao họ làm được mà mình không thể giống như thế…

Từ phố sách Đinh Lễ cho tới những hiệu sách cũ ở khắp Hà thành, chỉ với giá mươi, mười lăm ngàn một cuốn, đâu đâu bạn cũng bắt gặp những cuốn sách dạy làm giàu, sách doanh nhân. “Đắc nhân tâm”, “13 cách nghĩ giàu, làm giàu” cùng hằng trăm đầu sách khác, mỗi cuốn đều liệt kê ít nhất 50 cho đến 500 người đã làm giàu dựa trên những gì được viết trong sách. Ấy vậy mà ở đất nước chúng ta vẫn chẳng thấy có ai lên tiếng nói lời tri ân với tác giả những cuốn sách ấy? Phải chăng vì chưa có ai “học và làm theo sách” mà thực sự thành công?

Những ai đã đọc qua ít nhất một cuốn sách như thế đều nhận thấy rằng, gần như tất cả những nhân vật thành đạt được dẫn dụ trong sách đều đến từ Mỹ! Vâng, những cuốn sách được coi là hay nhất mọi thời đại, bán chạy nhất mọi thời đại hầu như đều truyền đi một thông điệp: Nước Mỹ là nơi tốt nhất để thực hành những gì đã đọc. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là những cuốn sách ấy với chúng ta chỉ để “đọc chơi”. Để chứng minh điều này, xin mời tất cả những ai đã đọc cuốn “13 cách nghĩ giàu, làm giàu” của Nalopeon Hills cùng lật lại bản danh sách 55 sự biện minh bắt đầu bởi chữ “nếu” được đề cập tới trong cuốn sách, hẳn sẽ thấy tất cả mọi lý do: “Nếu như tôi sinh sống ở một nơi khác. Nếu như tôi đang ở một hoàn cảnh khác” đều chỉ là ngụy biện. Vậy nguyên nhân đích thực: Tại sao chúng ta cầm công thức làm giàu trên tay mà vẫn không giàu?

Trước hết phải nói ngay là: Đa phần người Việt tìm mua sách “dạy làm giàu” bởi cách PR hoành tráng của đơn vị xuất bản hoặc a dua theo đám đông (khi thấy họ có mình cũng phải có), dù cho không hiểu gì nhưng vẫn cố đọc. Tất nhiên khi người đọc không có kế hoạch, có suy nghĩ hay ý tưởng thì sẽ chẳng bao giờ hiểu được công thức làm giàu của người khác và luôn tự hỏi tại sao họ làm được mà mình không thể giống như thế. Bernard Arnault, ông chủ thương hiệu Louis Vuitton nổi tiếng đã chia sẻ công thức làm giàu của mình dựa trên một kế hoạch mới chỉ xuất hiện trong đầu: “Khi có điều gì đó bạn cho rằng có thể thực hiện được, thì phải bắt tay vào ngay. Ở Pháp có rất nhiều người sở hữu ý tưởng hay, nhưng hiếm khi những ý tưởng đó được biến thành hiện thực”. Đây chính là vấn đề đầu tiên của chúng ta, không chịu suy nghĩ và khi có kế hoạch rồi thì lại không muốn triển khai.

Điều thứ 2 đã cản trở chúng ta trở nên giàu có như những người được nhắc đến trong sách: Thiếu quyết đoán và sợ bị chỉ trích. Như đã nói ở trên, người Việt có tâm lý hùa theo đám đông, gạt đi suy nghĩ của riêng mình. Việc dân ta hết lao đầu vào vàng, cổ phiếu, bất động sản khi thấy người người bỏ tiền vào thì cũng hùa theo đã là minh chứng rõ ràng nhất. Chúng ta không thiếu ý tưởng hay, lạ nhưng phần lớn đều “chết yểu” vì người khơi gợi nên đều không chịu được áp lực từ xung quanh. Thật đáng buồn là chúng ta đã cho phép mọi người gây ảnh hưởng tới mình nhiều đến mức nó đủ giết chết khát vọng của chúng ta. Ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào cũng vậy, một ý tưởng hay trước khi thành công rực rỡ đều phải sống sót trước những sự chỉ trích. Không ai nghĩ ôtô trở nên giá rẻ nếu như Henry Ford không quyết tâm thực hiện, bỏ qua sự chế nhạo của người đời. Larry Ellison – Chủ tịch của Oracle, hãng công nghệ cạnh tranh với Microsoft đã thẳng thắn tuyên bố rằng: “Khi sáng tạo, hãy chuẩn bị đối mặt với việc mọi người sẽ gọi bạn là kẻ điên rồ”.

Tiếp theo là sợ thất bại, nó ám ảnh chúng ta chẳng kém gì sợ cái chết. Thất bại đồng nghĩa là mất hết, từ thời gian, công sức và tiền bạc. Tuy nhiên, thất bại vẫn tồn tại một lý do xứng đáng để chúng ta mạo hiểm. Thất bại chính là bí quyết để thành công, thất bại không đồng nghĩa với việc cánh cửa làm giàu sẽ khép lại mà chỉ làm con đường dài ra một chút mà thôi. Steve Job từng thất bại ê chề, thậm chí còn bị đuổi khỏi công ty của chính mình rồi mới xây dựng được nên thương hiệu Apple hùng mạnh bây giờ. Thomas Eldison phải trải qua 10.000 thí nghiệm thất bại mới tìm ra công thức hoàn hảo cho chiếc bóng đèn hiện nay. Khi không hiểu được triết lý đánh đổi đơn giản này, thì bạn đừng vội bắt tay làm việc gì vì chính trong suy nghĩ bạn đã thấy mình thất bại thì bạn sẽ thất bại.

Có rất nhiều nguyên nhân lý giải cho việc chúng ta không thể làm giàu. Nhưng buồn cười nhất là lý do phải chờ cơ hội đến, thậm chí nó đến mà chúng ta vẫn không buồn nắm bắt. Ai cũng biện minh cho việc mình không thể làm giàu được bằng cái lý lẽ rất Việt Nam là “Tài lộc chưa phát thì đành chịu thôi”. Thế cơ hội, tài lộc ở đâu mà ra, nếu trời không cho thì cứ ngồi đợi à, hay trời cho rồi mà vẫn không biết? Xin thưa là chính những ý tưởng, kế hoạch mà chúng ta đã nghĩ, đã vạch ra đã là cơ hội và lộc trời rồi. Chúng ta chỉ việc bắt tay thực hiện cho đến khi phát mà thôi. Lúc đó mới hiểu được là lộc trời có thật nhưng tồn tại dưới một hình thức khác chứ không giống một cơn mưa tiền bất chợt đổ xuống trần nhà chúng ta.

Nói thế này cho dễ hình dung: Cùng được tiếp cận internet, song chúng ta và nhiều cư dân ở các quốc gia khác đã có những điểm khác nhau ở cách sử dụng internet. Nhiều người đã sử dụng máy tính và internet để tạo ra những tài sản khổng lồ. Google, Youtube, Facebook, các sản phẩm của Microsoft, hay những sản phẩm hiếm hoi trong nước như phần mềm diệt virus Bk, cùng các phần mềm ứng dụng khác. Trong khi chúng ta lại lên mạng chú ý đến những tin tức hằng ngày để theo đuôi các ngôi sao xem có scandal mới nhất và tải về máy phim ảnh khiêu dâm. Về điều này chúng ta “vinh dự” có mặt trong top 3 nước tìm kiếm sex nhiều nhất trên internet. Vậy đấy, tất cả đều có cơ hội làm giàu như nhau, nhưng chúng ta lại sử dụng vào mục đích khác trong khi vẫn biện minh là “đang chờ thời cơ đến”

Trần Đức Nhân

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Ông Jonathan Hạnh Nguyễn chia sẻ chuyện lập nghiệp

Chương trình giao lưu khởi nghiệp giữa các doanh nhân thành đạt với sinh viên, thanh niên khu vực phía Nam tối 30/11 có sự góp mặt của ông Jonathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch HĐQT- Tổng Giám đốc Tập đoàn Liên Thái Bình Dương, từng được biết tới sau đám cưới của cô con dâu diễn viên Tăng Thanh Hà.

Jonathan Hạnh Nguyễn: “Mượn bột vẫn gột nên hồ”.

Nếu SV "không có bột" thì cần có thời gian để tích lũy kinh nghiệm và tài chính và phải có nỗ lực để chấp nhận vượt qua mọi khó khăn.

Các bạn trẻ đừng phí thời gian ngồi quán cà phê này nọ để bỏ đi những chuyện mình đóng góp cho xã hội. Đóng góp cho xã hội không phải bằng tiền mặt mà bằng cách phải việc phải gia nhập vào đoàn thể, công đoàn, nhà trường.

Khi còn là sinh viên ở San Francisco, một thân một mình ở xứ Mỹ, không ai cho mượn tiền, tôi đã đi làm ba nghề để học 1 năm Anh văn, sau đó vào trường mới nghe được. Khi chuyển đến Chicago, tôi làm nghề rửa xe và nhiều việc làm khác để tích cóp những đồng tiền đầu tiên.

Với số tiền tích lũy được, tôi mua một chiếc xe để làm phương tiện đi lại và tiếp tục để dành tiết kiệm Từ 100 USD đến khi có tài sản 500 triệu USD đó là một quá trình khởi nghiệp thành công nhưng cũng đánh đổi nhiều cay đắng đòi hỏi nỗ lực, kiên trì.

Tôi từng làm Boeing với mức lương cao, nhưng đã bỏ để mở cửa hàng bán tạp hóa, bán hàng điện tử, bán giày thể thao, đi lái xe.

Thế hệ tôi mất 30 năm để thành công nhưng các bạn trẻ hiện nay chỉ mất khoảng 10 năm. Cơ hội để phát triển còn nhanh hơn nữa vì được nhiều sự hỗ trợ. Không có việc làm xấu, chỉ có người xấu...

Để có thành công, các bạn trẻ phải có giấc mơ. Bản thân tôi khi ở Nha Trang đã từng nằm mơ một ngày được đặt chân đi học ở San Francisco học.

Cách đây đây 40 năm, cầm bằng đi xin khắp nơi và nếm mùi thất bại, tôi nghiệm ra rằng cái bằng nhận được không phải để cho trường, để làm lãnh đạo ngay lập tức mà tấm bằng chỉ để củng cố sức học, chứng nhận mình đã được học qua lý thuyết với chuyên ngành đó. Một người học kinh tế nên bắt đầu với bộ phận kế toán vào sổ ra sổ, khi có kinh nghiệm thì sẽ có những chức vụ cao hơn.

Chỉ có hai cách sinh viên được tuyển dụng khi không có kinh nghiệm đó là nộp đơn xin một vị trí thấp rồi đi lên từ từ hoặc tích lũy kinh nghiệm bằng cách đi làm part-time, làm công việc thấp không cần lương cao.

Tiếng Anh là ngôn ngữ quan trọng để khởi nghiệp. Các bạn trẻ đã chọn con đường đại học thì nhân cơ hội đó  sử dụng những điều học được, những kiến thức của thầy cô, để áp dụng trong cuộc đời. Dù đôi khi nó không như mong muốn cần học ở trường đời, học ở sự can đảm.


Ông Nguyễn Hoài Nam – Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Bản Việt: Cần kế hoạch rõ ràng

Các bạn trẻ hiện nay rất nôn nóng, vội vàng thể hiện mình, muốn gặt hái được thành công ngay mà không nghĩ đến thời gian tích lũy kinh nghiệm. Nhiều SV vừa ra trường không muốn đi làm thuê mà chỉ muốn lập doanh nghiệp, làm chủ trong khi chưa có kinh nghiệm trên thương trường, chưa có mối quan hệ cần thiết nên dễ gặp rủi ro, thất bại.

Bản thân tôi, dù được đi du học ở Mỹ nhưng cũng phải mất tới 7 năm mới ra trường, trong khi thông thường những người khác chỉ mất 4 năm. Thời gian kéo dài do tôi phải nghỉ học, đi làm thêm để lấy tiền kiếm sống.

Đến năm thứ 3 đại học, khi làm thêm cho một nhà hàng Việt Nam ở Mỹ, tôi mới có tiền để quay lại giảng đường. Đó là khi quan sát thấy hằng ngày những khách hàng ở đây chỉ có 1 giờ đồng hổ để đi ăn trưa nhưng cũng phải chờ rất lâu để lấy được thức ăn. Tại sao không tổ chức một công ty chuyển thức ăn cho họ?

Tôi nảy ra suy nghĩ thành lập công ty chuyển phát thức ăn, thường gọi là bồi bàn trên bánh xe, đưa thức ăn theo yêu cầu của họ. Năm 2006 ra trường, tôi trở về Việt Nam làm cho một công ty cổ phần chứng khoán, với mức lương 800 ngàn/tháng.

Các bạn sinh viên sẽ thắc mắc, làm sao để ra trường tiếp cận nhanh với doanh nghiệp, sớm đi được con đường đã chọn là trở thành ông chủ khi đã xác định được mục đích và có tấm bằng trong tay?

Các bạn “không có bột vẫn có thể gột nên hồ”, nhưng trước hết, cần phải biết xây dựng vai trò cá nhân một cách vững chắc bao gồm những chuẩn bị về tài chính, kiến thức, quan hệ… Ngoài ra với việc kinh doanh, cũng cần nghiên cứu, kế hoạch rõ ràng.

Lê Huyền (Ghi)

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

Quà tặng hình trái tim

T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa
22/10/2012
Tôi có thói quen rất lười mua sắm. Có lẽ tôi bị ám ảnh là các anh chị em bán hàng đã được huấn luyện kỹ về tiếp thị từ công ty để móc túi tôi một cách nghệ thuật với nhiều thủ thuật “láu cá”. Tôi biết là oan cho các bạn này vì họ mưu sinh khá vất vả và trong lương thiện. Nhưng tiềm thức tôi vẫn văng vẳng lời dạy về chiêu thức cũng như chiến lược tiếp thị trong các bài giảng ở lớp. Chẳng hạn như cô lễ tân tại một viện sửa sắc đẹp nhận chỉ thị là khách bước vào cửa thì cười “Chào Bà”; nhưng khách bước ra về thì phải cúi đầu thật lễ phép và nói “Chào Cô”.
Trong mùa Giáng Sinh, tục lệ tặng quà nhau rất phổ thông, gần như bắt buộc tại Âu Mỹ. Trong những ngày đầu và giữa tháng 12, tìm được một chỗ đậu xe ở một trung tâm mua sắm lớn tại Mỹ là một vấn nạn. Rồi lội bộ khắp đủ loại gian hàng, chen chúc trong đám đông, để tìm món quà thích hợp dù đã lên danh sách, là một cực hình khác. Để thỏa mãn một đại gia đình kiểu Á Châu, chúng ta có thể mất cả tuần như không.
Sau này, khi rủng rỉnh chút tiền bạc thì tôi không cần phải lo khoản này nữa. Cô thư ký riêng của tôi tự lên danh sách và đi tìm quà. Chỉ hơi kẹt là đôi khi vợ con bè bạn mở quà ra buổi sáng 25/12, tôi cũng không biết món quà nào là của tôi tặng? Gần đây, lấy lý do là tôi ở xa xôi tận xứ Tàu, tôi ngồi viết mỗi người một chi phiếu để họ tự mua món quà họ thích. Bọn trẻ thì hoan nghênh, nhưng các bậc chú bác anh chị thì luôn phê bình cái “vô cảm” của thằng tư bản Mỹ này.

Do đó, trong lịch sử tặng quà của tôi có rất nhiều sai phạm cần “tự phê và tự tha thứ”. Tuy nhiên, một món quà luôn làm tôi hãnh diện là quà tôi cho đứa con gái đỡ đầu khi nó tốt nghiệp cử nhân luật tại Yale. Cha mẹ con bé rất giầu, hàng tỷ phú và tôi chắc chắn là nó không thiếu bất cứ một món quà hay trải nghiệm gì trong 22 năm tuổi đời ngắn ngủi.
Tôi thu xếp với một người bạn cũ đang điều hành một đồn điền và một nhà máy chế biến cacao dưới Panama. Tôi nói với Venus,” cháu đã ở khắp các khách sạn 5 sao từ Paris đến Dubai; và đã thực tập tại những công ty luật hàng đầu của thế giới. Chúng rất nhàm chán. Chú sẽ cho cháu một trải nghiệm khác biệt trong 2 tháng hè tới. Cháu sẽ làm nông dân, trồng hái cacao trong đồn điền; rồi qua làm nhân công ở xưởng bột chocolat. Sau 5 ngày lao động, cháu sẽ được đi tắm biển, leo núi…cùng các thổ dân..và học tiếng Tây ban Nha? Có một bạn trai Latin cho một mùa hè cũng sôi bỏng lắm cháu ạ”.
Venus nghe lời tôi và suốt mùa hè, nó gởi tôi một lô postcards kể tỉ mỉ từng niềm vui nỗi buồn. Điều làm tôi hạnh phúc nhất là khi gặp lại. Nó ôm tôi chặt cứng ,” Cám ơn chú về một mùa hè tuyệt vời”.
Tôi không mất một đồng nào cho món quà đó ngoài 30 phút điện thoại. Và còn nhận lại được một thanh chocolat hình trái tim, thiết kế đặc biệt với dòng chữ viết tay của Venus “Love you forever”.
Alan Phan

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012

Cha chung, mọi người khóc: Elinor Ostrom và bài toán lạm dụng tài nguyên

December 1, 2012 By Guest 8 Comments

June 13, 2012

Tác giả: Vũ Quý Hạo Nhiên



Giáo sư chính trị học Elinor Ostrom (1933-2012), Nobel Kinh tế 2009. (Hình: Indiana University)

Tiến sĩ Elinor Ostrom, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đoạt giải Nobel Kinh tế, qua đời hôm 12 tháng 3, thọ 78 tuổi.

Bà được giải Nobel Kinh tế năm 2009, sau cả một đời nghiên cứu cách bảo vệ tài nguyên của chung sao cho không bị lạm dụng, không bị dùng quá trớn, bào mòn tới nỗi bị mất luôn.

Tuy chiếm giải Nobel kinh tế, nhưng bà Ostrom không phải là một nhà kinh tế học. Bà đậu cử nhân, cao học, và tiến sĩ đại học UCLA không phải trong ngành kinh tế, mà trong ngành chính trị học.

Hầu hết công trình nghiên cứu của bà đều được thực hiện trong thời gian bà dạy tại đại học Indiana University, cũng không phải trong khoa kinh tế, mà trong khoa chính trị.

Điều này thật ra không có gì lạ. Không lạ, vì kinh tế học không còn là một ngành riêng lẻ dành riêng cho những người muốn làm kinh tế nữa, mà kinh tế học đã lấn vào hầu hết các ngành khoa học xã hội. Phương pháp luận của kinh tế là một phương pháp luận căn bản hầu như bất kỳ một nhà khoa học xã hội nào cũng phải biết. Và khi một nhà chính trị học, như Tiến sĩ Ostrom, dùng phương pháp của kinh tế để giải quyết vấn đề tài nguyên dùng chung, thì công trình đó trở thành một công trình kinh tế học.

.

Bài toán quen thuộc

.

Vấn đề Tiến sĩ Ostrom nghiên cứu là một vấn đề khá quen thuộc với người Việt Nam. Tại sao phòng vệ sinh ký túc xá lại rất dơ? Tại sao đường xá Việt Nam xả đầy rác?

Tại sao di tích lịch sử cứ bị phá hỏng không ai chăm sóc? Tại sao ngành du lịch làm ăn chụp giựt không màng tới tiếng xấu cho đất nước? V.v. và v.v.

Người Việt Nam mình gọi những vụ này bằng thành ngữ “cha chung không ai khóc.” Hoặc là “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.” Đó là những câu miêu tả tình trạng này, nhưng chưa phải là giải pháp.

Trong kinh tế, tình trạng này mang tên gọi “tragedy of the commons,” tạm dịch là “thảm kịch của tài nguyên dùng chung,” theo tựa của bài nghiên cứu của nhà môi trường học Garrett Hardin, in trong tạp chí Science năm 1968. (Hiện tượng một bài nghiên cứu môi trường, do một tiến sĩ vi sinh học viết ra, lại trở thành một bài kinh điển cho giới kinh tế, một lần nữa cho thấy kinh tế học không phải là một ốc đảo.)

Thế thì “tragedy of the commons” là gì? Tôi có lần nghe phỏng vấn Tiến sĩ Ostrom trên radio, thì bà tóm tắt công trình nghiên cứu cả đời của bà, là biến “tragedy of the commons”-thảm kịch của tài nguyên dùng chung, thành “problem of the commons” – một bài toán, một vấn đề, có giải pháp, chứ không phải là thảm kịch để ngồi khóc lóc than thở với nhau.

Thí dụ tiêu biểu của “tragedy of the commons” (mỗi vấn đề trong kinh tế học thường có một thí dụ tiêu biểu) là một đồng cỏ chăn bò.

.

Thảm kịch đồng cỏ tàn phế

.

Hardin miêu tả một cánh đồng cỏ không thuộc chủ nào hết, bên ngoài một ngôi làng. Một nhà nông đem 2-3 con bò ra ăn cỏ, thì không sao, vì cỏ sẽ mọc lại. Cả làng mỗi nhà mang 2-3 con, cũng chưa sao. Trong đó có một nhà mang 10 con, cũng vẫn chưa sao, cỏ vẫn còn mọc lại được.


Bò thả trong đồng cỏ chung, ở Anh. (Hình: Sharon Loxton/Wikipedia/Creative Commons)

Nhưng nếu ai ai cũng mang 10, 20, 30 con thả ra đồng cho nó tự ăn tự lớn rồi mình bán lấy tiền làm giàu, nếu ai ai cũng lùa thật nhiều bò vào ăn trong cánh đồng đấy, rồi ra cỏ sẽ chết hết, chết cả gốc rễ luôn.

Và thế là hết cỏ. Mà hết cỏ thì cũng hết cả chăn bò.

Cái tối ưu của mỗi người, khi cộng lại, sẽ không còn là mức tối ưu của chung. (Người quen thuộc với toán sẽ nhận ra là điểm cân bằng Nash của trò chơi này là điểm không tối ưu.)

Đó là thảm kịch.

Thảm kịch này đã xảy ra thật trong đời sống. Cụ thể nhất là trong ngành đánh cá. Có những nguồn cá bị đánh cạn kiệt, chỉ vì mỗi người đều cố gắng đánh cho được càng nhiều cá càng tốt, không cần biết có quá mức sinh đẻ của cá hay không. Nếu lỡ vùng biển nào bị cạn nguồn cá thì, không sao, ta đi qua vùng biển khác, tiếp tục vắt cho hết!

Vậy phải làm sao? Các nhà kinh tế đưa ra hai giải pháp.

Một giải pháp, có thể xem như là giải pháp của “cánh tả,” là một chính quyền nào đó đứng ra đánh thuế, hoặc quản lý đồng cỏ này, định giới hạn số bò được vào. Có giới hạn, đồng cỏ sẽ không bị gặm tới chết.

Giải pháp thứ nhì, có thể xem như giải pháp “cánh hữu,” là đem chia lô bán đấu giá đồng cỏ đó. Tư nhân mỗi người được một miếng, rồi tự lo mà giới hạn để năm sau mình còn cỏ mà cho bò ăn. (Ron Coase, Nobel Kinh tế 1991, là người cổ động giải pháp này.)

Cả hai giải pháp đều có vấn đề. Giải pháp “tả khuynh” kiểu Pigou có vấn đề là tin tưởng vào một nhà nước anh minh sẽ đưa ra đáp số tối ưu – trong khi nhà nước tự nó cũng có sự ích kỷ của nó, lo cho quyền lợi riêng của nhà nước thay vì quyền lợi chung. Có cả một ngành kinh tế, gọi là public choice theory, để phân tích sự ích kỷ của nhà nước dẫn đến những giải pháp dưới tối ưu như thế nào. (Tiến sĩ Ostrom cũng đóng góp đáng kể trong public choice theory.)

(Tôi cũng nhận xét thêm là ở mặt này người Việt Nam mình rất tả khuynh. Mỗi khi có vấn đề gì, là báo lề phải sẽ có những bài viết hay thư độc giả “mong sao nhà nước sẽ có giải pháp X, Y, Z,” và các blog lề trái thế nào cũng có người chỉ trích nhà nước là không chịu áp đặt giải pháp X, Y, Z.)

Giải pháp hữu khuynh cũng yếu. Chính Coase cũng nhận ra rằng chia một mảng tài nguyên lớn thành nhiều mảng nhỏ tăng chi phí giao dịch giữa những lô đất đó với nhau hoặc giữa người có đất và người ngoài. Ngoài ra, có khi mảng tài nguyên đó không phân lô được, hoặc phân lô không được công bằng.

.

Giải pháp thứ ba

.

Tiến sĩ Ostrom đưa ra thí dụ một đồng cỏ không phân chia được. Có cái làng kia ở miền núi châu Âu, người ta canh tác ở chân núi còn phần đồng cỏ trên cao, không phải của riêng ai, thì người ta thả bò ở đó.

Cỏ ở đó, mọc không đều. Cỏ mọc nhiều ít trong mùa xuân, là tùy tuyết mùa đông thế nào. Trên núi đó, tuyết rơi không đều, nên vào mùa xuân cỏ mọc cũng không đều. Có năm thì phía bên này cỏ xanh rậm rạp phía bên kia thưa thớt. Có năm thì ngược lại.

Vì vậy giải pháp của cánh hữu chia lô mỏm núi không thực hiện được. Chia lô ra sẽ dẫn đến tình trạng cóbên bò no và dư cỏ, có bên bò thiếu cỏ bị đói.

Cái làng đó chính là nguồn cho giải pháp của Tiến sĩ Ostrom. Cái làng đó có thật, có tên: Làng Törbel, ở Thụy Sĩ.

Ở đây, họ có luật của làng, là không cho phép thả bỏ ăn cỏ nhiều hơn số bò có thể nuôi được (trong chuồng) vào mua đông. Bỏ qua lý do tại sao luật này tối ưu (và nó đã tối ưu từ năm 1517 tới nay!) sáng kiến của bà Ostrom là nhận ra chân lý này:


Làng Törbel, nhìn từ mỏm núi đối diện. (Hình: Wandervogel/Wikipedia/Creative Common)

Vấn đề của tài nguyên dùng chung có thể giải quyết được qua sự thỏa thuận giữa những người dùng tài nguyên đó với nhau!

Ngoài ngôi làng Törbel ở Thụy Sĩ ra, bà Ostrom còn tìm ra hàng trăm thí dụ khác khắp thế giới, khi người sử dụng tài nguyên, tại địa phương, tự tìm ra giải pháp.

Tức là, trong khi giới kinh tế từng tưởng rằng chỉ có hai giải pháp ở hai cực tả và hữu – hoặc là nhà nước phải nhúng tay vào điều khiển từ xa, hoặc là tài nguyên đó phải xé ra cho tư nhân – thì có một giải pháp thứ ba: Giải quyết tại địa phương. Cái làng Törbel ấy, họ tự giải quyết với nhau, không cần chi tới nhà nước ở Bern xía vào.

.

Tự xài tự xử

.

Tự giải quyết với nhau à? Dễ nhỉ. Dễ thế mà cũng Nobel sao?

À. Nếu nghĩ thêm một bước nữa, mới thấy phát hiện này không phải là tầm thường đâu. Vì bình thường, nếu bảo, ai xài người đó tự giải quyết với nhau, thì rất nhiều người trong chúng ta sẽ giẫy nảy lên vì cho đó là vô lý, là vừa đá bóng vừa thổi còi.

Chính điều đó là phát hiện của Ostrom: Những kẻ đá bóng này không thể thổi còi bậy được, vì họ còn phải tiếp tục đá với nhau nữa, hết trận này qua trận khác. Khác với hai đội chuyên nghiệp cần có trọng tài, trẻ em trong xóm khi đá với nhau toàn tự thổi còi đấy thôi!

Phát hiện của Ostrom cũng chứng minh thành ngữ của Việt Nam là sai. “Cha chung không ai khóc” ư? Có ai đã từng đi đám ma của ông nào đông con mà không con nào khóc đâu? Thực tế là càng đông con càng nhiều đứa khóc và càng dễ làm đám ma to. “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”? Cũng sai nốt. Nhiều sãi thì cứ phân công đóng cửa chùa thôi!

Trong công trình “Governing the Commons” in năm 1990, Tiến sĩ Ostrom trình bày kết quả khảo sát thực địa ở khắp năm châu, và rút ra danh sách 8 điểm cần có để giải pháp địa phương thực hiện được. (Xem thêm tóm tắt ở đây, ở đây, và ở đây.) Nhìn vào danh sách này, người quen thuộc với phương pháp kinh tế học sẽ nhận ra nhiều khó khăn được giải quyết, như property rights, externalities, free-rider, one-shot game, transaction cost, …

1. Tài nguyên dùng chung phải được phân vùng rõ rệt, để loại bỏ người ngoài nhào vô mà không tuân thủ luật của nhóm.

2. Luật của nhóm phải cân bằng giữa tài nguyên rút ra và cống hiến bỏ vào, như bỏ tiền, bỏ công…

3. Người bị ép tuân thủ luật của nhóm, phải có tiếng nói trong việc lập ra và thay đổi luật này.

4. Phải có người theo dõi sự tuân thủ để tránh gian lận.

5. Phải có luật phạt vi phạm, và mức phạt phải tăng dần. Và ở đây, Tiến sĩ Ostrom chỉ ra điều cơ bản của vấn đề, là không cần một nhà nước ở xa mà chính những người sử dụng tài nguyên tự bảo đảm sự tuân thủ bằng những mức phạt này.

6. Tranh chấp phải giải quyết được ở mức địa phương, với phí tổn thấp về tiền bạc, nhân sự, thời gian. Điều này giảm thiểu chi phí giao dịch.

7. Chính quyền bên ngoài phải tôn trọng quyền tự quyết của địa phương. Cái này tiếng Việt gọi là phép vua thua lệ làng. Không chỉ để tránh những giải pháp dưới tối ưu do “xuân từ trong Huế đưa ra,” mà điều này còn tránh cho những kẻ muốn lách luật của nhóm không thể chạy ra trung ương kiếm ông nào ô kê cho mình làm bậy.

8. “Nested enterprises” – phải có nhiều tầng quy tắc cho từng tầng tài nguyên. Ostrom lấy thí dụ ở Philippines: Kênh đào có nhiều cấp, có kênh chính, kênh nhỏ tách ra từ kênh chính, và trên đó thì có hệ thống chung của tất cả các công trình thủy lợi. Thì luật ở kênh nhỏ, là kênh cuối cùng đổ vào ruộng, phải khác luật ỏ kênh chính – đổ vào các kênh nhỏ. Và cả hai cùng phải khác luật của cả hệ thống dẫn thủy nhập điền.

Và nhìn vào danh sách này, một người không cần quen thuộc với phương pháp kinh tế cũng nhận ra là nó có dáng dấp của cái gì đó rất là thượng tôn pháp luật, rất là bảo vệ quyền tư hữu, rất là tư pháp độc lập, rất là địa phương tự trị, rất là tôn trọng cử tri.

Nói chung là rất là dân chủ.

VŨ QUÝ HẠO NHIÊN

Tư cách người Việt qua văn học

November 29, 2012 By Guest 37 Comments

Bài Tổng Hợp Của Vương Trí Nhàn


Trong sự dằng xé của những mâu thuẫn

Về đàng trí tuệ và tính tình người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức.


Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát hay khiếp sợ và muốn sự hoà bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.


Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu (1) danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỷ, sùng (2) sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tín (3) tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.


(1) ham thích

(2) chuộng, hâm mộ

(3) tin một cách mãnh liệt


Trần Trọng Kim

Việt nam sử lược, 1925



Cái hay lẫn với cái dở


Về tính chất tinh thần, thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường.

Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý (1).

Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo (2) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động.

Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng t­ưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.

Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ­ưa hư danh và thích chơi cờ bạc.

Não sáng tác (3) thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng, dung hoà thì rất tài.

Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.


(1) tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết

(2) những gì đã trở thành lối mòn

(3) nói theo cách nói hiện thời, tức “sức sáng tạo “nói chung

Đào Duy Anh

Việt nam văn hóa sử cương, 1938


Nhiều thói xấu vặt tạo nên nỗi bất hạnh lớn

Tính thiếu lo xa;

sự đam mê vô độ cờ bạc và lòng tin ngây thơ vào sự cứu giúp của may rủi và cúng lễ;

những sự kình địch giai cấp nẩy sinh từ những phân biệt giả tạo;

đầu óc thích kiện cáo làm cho hai kẻ láng giềng chống lại nhau vì một mảnh đất cỏn con hoặc vì một phần đồ cúng chia không đều;

các vụ tranh chấp liên miên vì đất công;

sự thụ động trước những yêu sách quá đáng của bọn cho vay…

— đó là những nhân tố làm trầm trọng thêm tình trạng khốn khổ của những gia đình làm ruộng.

Những hậu quả này – nẩy sinh từ truyền thống — ngày xưa còn chịu đựng được nhờ mật độ người ổn định, nay trở thành một gánh nặng cứ mỗi năm một nặng thêm, do dân số tăng lên nhanh chóng.

Nguyễn Văn Huyên

Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939


Không theo cái gì tới cùng



Tôi tin rằng đất Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng cũng cứ đến đây là thành thối nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều tín ngưỡng nào, một quan điểm chắc chắn gì. Bởi thế con người Âu hoá cực đoan ấy chỉ Âu hoá được ở cái lỗ mồm mà thôi. Và than ôi! suy một người ra ngàn người, suy một sự ra vạn sự.




Vũ Trọng Phụng

Từ lý thuyết tới thực hành (1), Tao đàn 1939

(1) Đây là tên một truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, trong đó kể về một nhân vật nói một đằng làm một nẻo, tuyên truyền cho một quan niệm mới nhưng sống thì hoàn toàn ngược lại.


Cái gì cũng giả, trừ bọn ăn cướp

Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Việt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của sở nọ sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.

Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bầy ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với giềng mẻ gọi là giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả dê.

Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra

Ngô Tất Tố

Thờì vụ, 1938

Trì trệ bế tắc


Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần của người Việt thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên cảm giác có vẻ chậm chạp và sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ.

Tính ưa hư danh – phản ứng của xã hội đẳng cấp — là một tật phổ thông của người Việt Nam hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình.

Tật cờ bạc — kết quả của óc tư hữu tài sản bị nghẹn lối – do cuộc sống chật hẹp gây nên cũng là một tật phổ thông. Cờ bạc vẫn gieo những ảo tưởng giàu sang vào đám dân chúng rời rạc không còn đủ tin vào sức cố gắng hay tinh thần chiến đấu của mình mà chống nạn nghèo đói nữa.

Lương Đức Thiệp

Xã hội Việt Nam, 1944


Nông nổi, hời hợt


(… ) Phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung là nông nổi, chỉ hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.

Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì tha thiết và cũng chẳng dám ghét tha thiết, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no.


Thạch Lam

Theo dòng, 1941


Qúa thiết thực hóa tầm thường



Người Việt không quan niệm cái gì thái quá.

Từ cung điện lăng tẩm của vua chúa đến đền đài miếu mạo của dân gian, mọi thứ đều khuôn theo sở năng kinh tế và xã hội.

Khuôn khổ chùa Đế Thiên Đế Thích và thành Đồ Bàn đều ra ngoài trí tưởng tượng.

Về học thuật cùng tư tưởng không có chủ nghĩa siêu hình nào.

Vật lộn với cuộc sống quá eo hẹp hàng ngày nơi đồng ruộng hoặc miệt mài vào sách thánh kinh hiền, người ta ít rảnh thời giờ theo cuộc suy tưởng triền miên. Cũng vì thiết thực mà người Việt tín ngưỡng để rút phần lợi ích thiển cận của tôn giáo tại ngay kiếp này nhiều hơn là mong linh hồn được giải thoát mãi tận kiếp sau.




Lương Đức Thiệp

Việt Nam tiến hoá sử, 1944


Thụ động, bất lực, buông xuôi

Họ cày ruộng, chân lội trong bùn, có khi phải ngâm mình trong nước. Có những người đi cả ngày đư­ờng chỉ cốt kiếm một gánh củi khô. Nhưng tình trạng nhân công dư dật thường khiến con người lười nhác. Họ trở nên vô tâm và hay cãi cọ. Rất nhiều chứng tật khác nhau, những vụ rắc rối về hành chính, những vụ xung đột vô cớ, được dịp nảy sinh và kết quả là bất công lại chồng chất thêm.

… Môi trường làm sa sút sức khoẻ và tác động chẳng kém tới tính chất người Việt. Sức nóng thường xuyên làm cho thần kinh uể oải và con người dễ buồn ngủ. Không phải là hoàn toàn vô lý khi bảo rằng nhược điểm lớn nhất của con người nơi đây là lười biếng, hoặc ít nhất là cái khuynh hướng buông trôi, thây kệ mọi việc.


Nguyễn Văn Huyên

Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939


Cảm tính nặng hơn lý tính


Nói chung người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lý tính. Yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đã vạch sẵn, không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển

Chẳng có mặt nào của tính cách người Việt lại không có mặt bù lại, và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đã nói về tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và những người lao động sẵn sàng làm những công việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.

Chúng ta cũng đã nói về tính phóng túng bông lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ dàng khám phá ở người dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định chiều hướng tâm hồn người nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay những người thợ mỹ nghệ.

Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người Việt thì ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là những tay dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ; là những kẻ sính kiện tụng không ai địch nổi; là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được bằng cấp.


Nguyễn Văn Huyên

Văn minh Việt Nam,1944




Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh


Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lý sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ còn thích ăn không ngồi rồi.

Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm bởi một nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy.

Sau khi chất đầy trí nhớ các loại kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó do ganh ghét mà kiếm chuyện lôi thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng lực lập luận khoa học.

… Có những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá. Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn đuổi, họ buộc phải bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong quan hệ với chính quyền trung ương, họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập thì cũng ương bướng bất phục.

Nguyễn Văn Huyên

Văn minh Việt Nam, 1944

Nền văn hoá của kẻ yếu

Hình như sống dưới cái bóng của cái khối văn hoá Trung quốc, sừng sững ở bên mình như cả núi Thái Sơn, văn hoá chúng ta chỉ cố sức để man diên (1) ở trên mặt đất chứ không có cái khuynh hướng trổ vọt lên trời.

Để sống còn, chúng ta chỉ cốt bám chặt lấy đất như bám lấy cái nguồn sinh khí. Cho nên chúng ta không có cái vinh dự là có những tổ tiên chọc trời khuấy nước, làm chấn động thế giới bằng những tư tưởng hay hành động của mình, nhưng chúng ta lại đã may mắn có được những tổ tiên cần cù, kiên nhẫn biết sống thiết thực và biết tổ chức cuộc sống một cách thích đáng để đối phó với vận mệnh khắc nghiệt của mình.

Cái giá trị tranh đấu chúng ta nhận thấy trong cái tính chất thiết thực ấy lại tuồng như chỉ là tiêu cực.

Ngay trong văn hoá bình dân, cái văn hoá phát triển ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của Hán hoá, tuy có lộ rõ cái tinh thần chống đối luân lý lễ giáo của nhà nho, thế mà cũng chỉ là sự chống đối của kẻ yếu.

Có những người sau khi làm tròn phận sự một người quân tử ở đời thì rũ sạch nợ trần đi tìm nhàn hạ ở nơi thôn dã, hay có người bất bình với thời thế khiến mình không thể làm tròn phận sự được mà đi tìm an ủi ở sơn lâm, nhưng thảy đều là những người chỉ cầu tự nhiên cấp cho những thú thanh cao để di dưỡng tính tình mệt mỏi, chứ không ai dám đem tâm trí mà tìm tòi mà tra hỏi tự nhiên.


(1) bò lan như cây cỏ


Đào Duy Anh

Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950

Cánh cửa mở rộng thế giới?

April 2, 2012 By Alan Phan 11 Comments



Một anh bạn văn, anh T.N. Tiến, kể một câu chuyện thật mang nhiều ý nghĩa. Tại một trại dưỡng bệnh cho các em khuyết tật nơi anh làm việc, có 3 anh “mát giây”, Mỹ nó gọi là mentally retarded, hay trốn trại ban đêm ra ngoài. Không hiểu vì sao, các anh có chìa khóa của một cửa tiệm tạp hóa gần trại, nên thường đột nhập, chơi đùa một lúc, rồi quay về trại, không ai biết.

Cho đến một hôm, các anh không về và bạn Tiến được phái đi tìm. Đêm đó, các anh thức suốt đêm trước cửa tiệm, lúng túng vì một vấn đề nan giải. Trước đó, người chủ quên khóa cửa, do đó các anh không biết làm gì với chìa khóa của mình. Trong đầu óc các anh, đây là khủng hoảng lớn vì mọi diễn biến đều đi ngược với những gì các anh toan tính và mong đợi. Mãi đến khi bạn Tiến lùa các anh về trại, các anh vẫn đứng trước tiệm, tổ chức hội thảo để bàn luận và tìm kiếm giải pháp.

Nghe câu chuyện, thiên hạ thường kết luận vội vàng “đúng là mấy thằng ngu”. Nhưng thực ra, trong đời sống, chúng ta cũng hay ngu xuẩn như vậy, kể cả tôi. Chúng ta luôn bị mờ mắt với những thành kiến, lý thuyết, rác rưởi nhồi vào đầu óc cả mấy chục năm trời, nên trở thành một con ngựa bị bịt mắt chạy trên đường một chiều. Trong khi đó, sự thật có thể vô cùng đơn giản đến độ không ai thực sự là không biết giải pháp. Nhưng phải làm ngược lại với thói quen đã được uốn nắn? Thôi cho tôi yên. Ai cũng làm thế mà.

Chúng ta bàn luận liên miên về những rào cản và thách thức. Từ tái cấu trúc cơ chế kinh tế, hệ thống giáo dục đến xây dựng lại niềm tin vào xã hội, con người. Chúng ta có quá nhiều chìa khóa. Ai sẽ là người chỉ đơn thuần hành động, đẩy cánh cửa đang mở rộng của thế giới?

Alan

Thứ Hai 02/04/2012

Thế giới của bầy chuột

November 22, 2012 By Guest 48 Comments

BLOG CỦA NGUYỄN HOÀNG ĐỨC NGÀY THỨ NĂM 22/11/2012

Việt Nam, ôi quê hương yêu dấu rừng vàng biển bạc của chúng ta, nhưng mà có phải nó đang tụt xuống hàng “hố rác” của nhân loại? Từ Bắc chí Nam, từ Quảng Ninh đến Cần Thơ các cô gái trẻ nườm nượm đi thi để lọt qua vòng tuyển lấy chồng Hàn Quốc. Với một lý do mở màn rất đơn giản, ít nhất người ta được xuất ngoại lần đầu, được đáp máy bay lên bầu trời. Trái lại, nếu không dám dứt bỏ một lần làm sao thoát cảnh lội bì bõm bên bờ ruộng để leo lên phi cơ phản lực vượt ra quốc tế? Những cô gái Việt này ao ước đàn ông Hàn Quốc chẳng khác gì “tây mũi tẹt”, giống cha ông châu Á đã từng khao khát phương Tây như thần thánh cái gì cũng có.
Trời ơi, quả là một trời một vực, cùng da vàng mũi tẹt như nhau, chỉ sau vài thập kỷ, một đằng thì thành tây, đi đâu cũng leo lên xe hơi và máy bay; một đằng thì bán cả đời mình chỉ để nếm một lần leo phi cơ. Tại sao? Có phải tại trí khôn của người Việt mà rất nhiều người chúng ta lúc nào cũng thường trực tự hào?

Có nhiều người Việt phản ứng rất mạnh mẽ khi thấy ai nói về cái xấu của người Việt, như thể nói thế là chạm đến quốc hồn – quốc túy, nói xấu tổ tiên, ông cha… và họ phản đối như thể đó là thước đo chứng minh lòng yêu nước của mình rằng: tôi yêu tổ quốc, tổ tiên, dân tộc, giống nòi, và tôi phản đối lại là để bảo vệ tổ quốc. Họ có bảo vệ tổ quốc không? Thực ra, họ chỉ bảo vệ cái xấu trong chính con người họ. Hoàng đế Napoleon có nói “Bao dung với cái xấu là sự đồng tình với nó”. Đúng vậy một kẻ ăn cắp thường có cái nhìn vô tội với một thằng ăn cắp khác. Kẻ nói dối cũng vậy. Kẻ độc ác, đố kỵ, ích kỷ cũng thế, nó không giành cho những ai giống nó một cái nhìn phán xử khác lạ…

Kết quả bao dung cũng là bao che cho cái ác tràn lan vô bờ đến vậy dẫn đến dân tộc Việt ngày nay theo các bảng sắp hạng đều không ngoi ra khỏi vị trí đội sổ, thua xa cả những nước trong khu vực từ 50 đến 100 năm. Nói đâu xa, nước Lào là nước nhỏ bé nghèo nàn bậc nhất thế giới, nhưng từ xưa đến nay luôn trở thành giấc mơ của người Việt. Thời bao cấp, mấy anh sinh viên Lào chỉ có vài cái nhẫn vàng đeo ngón tay đã trở thành niềm ao ước của nhiều cô gái Việt. Còn giờ đây, xe hơi loại bán tải của Lào nhiều như xe đạp từ quê lên phố vẫn là mơ ước của giới trung lưu Việt Nam. Còn giới cán bộ trung lưu Việt hí hửng về thu nhập cỡ dăm chục triệu đồng mỗi tháng thì vẫn còn thua loại rửa bát, làm thuê ở Singapore, một nước nằm trong khu vực.

Sự bao dung – bao che – cũng là đồng hóa đó đã gây ra vô số cái xấu cái ác ở Việt Nam: nào ăn cắp nắp cống, tháo đinh đường tầu, tháo đinh rầm cầu, cắt đường dây điện thoại, rải đinh “đa cạnh” ra đường, rồi xi măng cốt tre…đã gây ra nhiêu tai nạn khủng khiếp. Mới nhất là nạn pha trộn tạp chất vào xăng dầu đã gây ra hàng loạt vụ cháy xe gây thiệt hại tài sản và chết chóc tang thương. Đó là một thảm họa! Nhưng còn thảm họa hơn ngay khi đã tìm ra mầm mống của những vụ pha trộn, người ta vẫn triển khai sự bao dung, nghĩa là vẫn bao che cho những thứ nguy hiểm chết người rình rập ngay trong chiếc xe của người dân. Tại sao? Vì các công ty xăng dầu đều thuộc các ông lớn, chẳng lẽ ông lại muốn phơi áo sân sau của mình!

Trong một buổi gặp mặt các phóng viên. Một vị quan chức nêu ra ý kiến chỉ đạo: để kích thích du lịch Việt Nam báo chí cần khai thác đưa tin về những lời nói tốt đẹp của khách thăm quan nước ngoài, như vậy mới lôi kéo được du lịch.

– Vậy những lời nói về cái xấu của người Việt thì sao? – một nhà báo hỏi lại.

-Vị quan chức cười xòa “cái này thì…” – có nghĩa là không được đăng.

Tóm lại, người Việt chỉ quen với những “sự thật” được biên tập, nói thẳng ra chỉ thích lời khen mà không muốn bị chê. Như vậy là người Việt chưa trưởng thành, chỉ là những đứa trẻ thích nghe lời khen mà không muốn bị chê. Mới đây có nhiều bài báo như của học giả Vương Trí Nhàn tập hợp những bài viết của các học giả lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai … hoặc của nhà báo Hoàng Tùng… đã nêu ra từ xưa, nhiều chuyên gia phương Tây đã nhận xét người Việt rất nặng như: “nói dối”, “ăn cắp”, và “sát nhân”. Đặc biệt có chuyên gia nói: “Việt Nam là quốc gia đầy những con chuột”.

Theo các chuyên gia, chuột là thứ sống theo bầy và thuộc loại thông minh bậc nhất, chúng không bao giờ để bị dính bẫy đến lần thứ hai. Một con bị sập bẫy, cho dù bẫy sắt, bẫy tre hay bẫy dính, thì chúng liền tụ lại họp hành rút kinh nghiệm rồi thông báo cho cả bầy trên toàn lãnh thổ cống ngầm cách thức nhận biết và tránh bẫy. Nhưng dù bầy chuột có khôn đến mấy, chúng cũng không phải là thứ kiêu hãnh của ánh sáng. Sự khôn ngoan của chúng chỉ là chui rúc để tồn tại, mà không phải là vươn thẳng để sống minh bạch và tiến bộ.

Mong rằng mọi người Việt đều biết vượt qua tự ái để phấn đấu cho một xã hội tiến bộ, minh bạch và kiêu hãnh thực sự. Để những cô con gái Việt không phải nhìn đàn ông hàng xóm kiêu sa như “tây mũi tẹt”. Rất cám ơn!

Nguyễn Hoàng Đức

2 Bài Giải Cho Việt Nam?

November 29, 2012

BLOG CỦA G/S TRẦN AN BÀI NGÀY THỨ NĂM 29/11/2012

Giữ thêm 50 năm nữa?

“Cái ly nước này nặng bao nhiêu?”
“50 gam!”…”100 gam!”… “125 gam!”… các sinh viên trả lời.

“Tôi không thể biết chính xác nếu không cân”. Giáo sư nói: “Nhưng câu hỏi của tôi là: Điều gì sẽ xảy ra khi tôi cứ giơ cái ly thế này trong vài phút?”

“Chẳng có gì cả” Các sinh viên nói.

“OK, vậy điều gì xảy ra nếu tôi giơ trong một giờ?” Giáo sư hỏi.

“Tay thầy sẽ bắt đầu đau ạ” Một sinh viên trả lời.

“Đúng vậy, và nếu trong một ngày thì sao?”

“Tay thầy có thể tê cứng, và thầy có thể bị đau cơ, tê liệt, chắc chắn phải đến bệnh viện”. Một sinh viên khác cả gan nói. Và tất cả lớp cười ồ.

“Rất tốt. Nhưng trong tất cả các trường hợp đó, cân nặng của cái ly có thay đổi không?”. Giáo sư lại hỏi.

“Không ạ”. Các sinh viên trả lời.

“Vậy, cái gì khiến cho tay bị đau, cơ bị tê liệt? Và thay vì việc cứ cầm mãi, tôi nên làm gì?”

Các sinh viên lúng túng. Rồi một người trả lời, ‘Đặt ly xuống!’

“Chính xác!” giáo sư nói: “Các vấn đề trong cuộc sống cũng giống như thế này. Khi bạn giữ nó trong đầu vài phút thì không sao. Nghĩ nhiều hơn, chúng làm bạn đau. Và nếu cố giữ thêm nữa, chúng bắt đầu làm bạn tê liệt. Và bạn sẽ không thể làm gì được nữa”.

2. Chúng ta đã lớn lên chưa?

Một người đàn ông đi ngang qua một chú voi đang bị xích, đột nhiên ông dừng lại và tự hỏi tại sao một chú voi lớn như vậy lại không tự làm đứt một sợi dây thùng nhỏ buộc ở chân và trốn thoát. Thậm chí còn không có cả dây xích và lồng giữ. Hiển nhiên là chú voi hoàn toàn có thể làm được, bất cứ lúc nào chú muốn nhưng vì một lý do nào đó chú đã không làm như vậy.

Người đàn ông đã đến gặp người quản tượng gần đó và hỏi anh ấy vì lý do tại sao con voi vẫn đứng yên ở đó và không bao giờ bỏ đi. Người huấn luyện voi trả lời: “À, khi mà con voi này còn nhỏ và bé hơn bây giờ, chúng tôi đã sử dụng cùng một loại kích cỡ dây thừng giống như bây giờ để trói chúng. Ở độ tuổi đó, các sợi dây vẫn đủ sức để giữ chúng. Khi mà voi lớn lên, chúng tin rằng chúng không có đủ khả năng phá được dây. Con voi này luôn tin rằng sợi dây có thể giữ chúng lại và không bao giờ thử trốn thoát”.

Người đàn ông đã rất ngạc nhiên. Những con vật to lớn như vậy đều có khả năng làm được, nhưng chúng đã không bao giờ tin và sẽ mãi mắc kẹt ở nơi này.

Source: www.gocnhinalan.com