Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

Bill Gates nói về Học đại học

Phó Thiên Tùng
Dịch từ Nhân Dân Nhật báo TQ ngày 2/7/2004

“Trong con mắt các em học sinh của tôi, Microsoft là một thần thoại, còn cái tên Bill Gates là cả một cuốn sách huyền bí. Các em đều mong muốn có thể hiểu được ngài”. Nghe thầy hiệu trưởng Viên Ái Tuấn nói tới đó, Bill Gates cười rạng rỡ như đứa trẻ: “Trước đây tôi chỉ toàn đến các trường đại học, thế mà bản thân tôi lại chưa tốt nghiệp đại học nào. Nay có dịp được đến trường trung học, tôi rất sung sướng, bởi tôi đã tốt nghiệp trung học rồi”.

Dưới đây là phần trả lời câu hỏi học sinh của Bill Gates.

Trường đại học vẫn là nơi lựa chọn rất tốt.

Bối cảnh: Năm 1975, Bill Gates đã bỏ dở đại học năm thứ ba để sáng lập ra Công ty Microsoft.

Hỏi: Lúc sáng lập Microsoft, ngài còn đang là một sinh viên. Trước nhiều áp lực ngài có nghĩ rằng vạn nhất bị thất bại thì sẽ như thế nào không?

Đáp: Khi dự thi đại học, tôi rất căng thẳng, ba trường đại học tôi đã dự thi thì đều rất khó vào, tôi không biết mình sẽ được trúng tuyển trường nào. Còn việc lập công ty, cha mẹ tôi đều hết sức ủng hộ, và họ bảo tôi trường đại học vẫn là một lựa chọn rất tốt, vạn nhất công ty không thành, con có thể trở lại học tiếp.

Hồi trẻ tôi có hai cái tật: một là bao giờ cũng chây ì ra để vấn đề đến phút chót mới giải quyết, và cứ chây ỳ như thế có khi đã để cho công việc bị “hoá bùn”. Hai là lúc đầu khi viết phần mềm, bao giờ tôi cũng tự mình viết lấy, thích dỡ bỏ phần lập trình của người khác để làm lại. Sau này tôi đã hiểu, phải biết buông tay ra để cho người khác được thi triển tài năng – muốn tạo dựng ảnh hưởng lớn cho mình, thì phải biết dẫn dắt nhiều người cùng làm.

Phấn đấu thực hiện ước mơ với tất cả tinh lực

Bối cảnh: Tại vườn hoa trường trung học thực nghiệm Bắc Kinh, Bill Gates trồng một cây Tùng đặt tên là “Thời đại kỹ thuật số”. “Làm sao cho phần mềm ngày càng đơn giản, ngày càng rẻ tiền và tràn trề niềm vui, mở ra một thời đại kỹ thuật số làm say mê lòng người” luôn luôn là mục tiêu của Bill Gates. Hiện giờ, kinh phí hàng năm dành cho nghiên cứu khai thác của Microsoft là trên 5 tỉ đô.

Hỏi: Hồi bằng tuổi chúng tôi, lý tưởng của ngài là gì? Nay đã thành công danh toại, ước mơ hiện nay của ngài?

Trả lời: Tôi rất may mắn, năm 13 tuổi đã có cơ hội tiếp xúc với máy tính. Khi ấy tôi thấy rất lạ, vì sao người lớn lại cảm thấy máy tính khó như vậy? Tại sao họ lại không ý thức được máy tính sẽ làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của họ? Tôi không hề mong muốn sẽ kiếm ra bao nhiêu là tiền, lập ra được một công ty vĩ đại tới chừng nào. Để cho máy tính được trở thành một thứ công cụ hoàn mỹ, đó là ước mơ của tôi, ước mơ suốt đời tôi đeo đuổi. Cho đến hôm nay, mục tiêu này đã thực hiện được một nửa, tôi hy vọng rằng trước khi về hưu sẽ thực hiện trọn vẹn được nó.

Hỏi: Ngài cho rằng người như thế nào mới được coi là con người thành công?

Trả lời: Tiêu chuẩn đo lường sự thành công có rất nhiều. Theo tôi nghĩ, trước tiên bạn hãy xem bạn có thể làm được điều gì đấy cho những người mình tôn trọng, như người thân trong nhà, bạn bè chẳng hạn, có thể làm cuộc sống họ được cải thiện hơn không. Có lẽ dấy là một cách đo tương đối dễ nhìn nhận và thao tác.

Còn những tiêu chí truyền thống hơn của sự thành công là, bạn có sáng tạo được những gì mới toanh không, có đem lại được những thay đổi cho thế giới này không?

Giáo dục nhằm tạo dựng nhân sinh hoàn mỹ

Bối cảnh: Cho tới nay, Bill Gates đã bỏ ra trên 1,4 tỉ đôla để cải thiện điều kiện học tập cho lớp người có thu nhập thấp, lần này tới Bắc Kinh, thay mặt cho Microsoft và Bộ giáo dục TQ, ông cho khởi động kế hoạch “Cùng tương trợ học đường”, xâu dựng và trang bị cho miền tây Trung Quốc lớp dạy máy tính.

Hỏi: Nếu quyên tặng một chút gì đấy cho trường học của con gái mình, ngài sẽ lựa chọn thứ gì? Ngài sống với con cái mình ra sao?

Trả lời: Tôi đi lại trên khắp thế giới, được thấy ở không ít nơi cuộc sống còn rất nghèo nàn lạc hậu. Tôi sẽ cho con gái tôi biết những điều ấy, mong nó không bị hư hỏng bởi sự nuông chiều của điều kiện vật chất ưu việt. Tôi sẽ cho nó rất nhiều sách, và một chiếc máy tính thật tốt chứ không phải nhiều đồ chơi. Tôi dạy nó phải biết yêu thương, đừng xem TV, chơi trò chơi điện tử nhiều quá. Tôi khuyến khích chúng đọc sách, nắm bắt những kiến thức nhiều mặt, và biết xây dựng niềm tin từ khi còn nhỏ, phải cảm nhận được mình là con người thông minh, có đủ năng lực đối mặt trước mọi thách thức. Bạn cũng có thể làm nên “thần thoại” đấy.

Thoả mãn lòng hiếu kỳ của bọn trẻ là việc rất cần thiết. Tôi luôn làm hết sức để giải đáp những câu hỏi chúng đưa ra, nếu không giải đáp nổi thì tôi sẽ cùng học với chúng, cố gắng cùng tìm ra đáp án của vấn đề.

Hỏi: Rất nhiều người học hết đại học mà không có được thành công như ngài. Quan điểm của ngài về giáo dục đại học.

Trả lời: Đây là một câu hỏi rất hay. Đại học phải học cho hết, đó là điều rất quan trọng. Về điểm này, tôi cần phải nói cho rõ. Khi xưa tôi sáng lập công ty là bởi vì cơ hội xuất hiện, và nó sẽ mất đi chỉ trong tích tắc, tôi phải nắm lấy nó. Tôi rời nhà trường ở dạng xin nghỉ học, cho nên hiện giờ tôi vẫn chỉ là nghỉ học. Biết đâu hai năm nữa tôi lại trở về Harvard, để hoàn tất việc học hành của tôi.

Hiệu trưởng Viên vỗ tay: “Các em hãy cố gắng, phấn đấu để đến khi ngài Bill Gates trở lại đại học, các em sẽ đến Harvard để học cùng với ngài” .

Đây là thứ giáo dục Việt Nam đang thiếu

Một ý tưởng bất chợt lóe lên đôi khi có trị giá cả triệu đô la (A – Robert Collier).

Một đất nước thịnh vượng là một đất nước có nhiều công dân hiền tài, có năng lực sáng tạo và sáng nghiệp. Để có những công dân sáng tạo và sáng nghiệp cần có một nền giáo dục sáng tạo. Để có một nền giáo dục sáng tạo cần có các giáo viên sáng tạo. Để có có các giáo viên sáng tạo cần có những nhà trường sáng tạo. Để có những nhà trường sáng tạo cần có những người lãnh đạo sáng tạo và sáng nghiệp. Những người lãnh đạo sáng tạo và sáng nghiệp được nuôi dưỡng và đào tạo từ những học sinh/sinh viên sáng tạo – từ một nền giáo dục sáng tạo và trong một đất nước có môi trường tự do cho sự sáng tạo và sáng nghiệp. (Triết lí của IFERD: www.iferd.edu.vn – một trang web chứa các khóa đào tạo kĩ năng sáng tạo và sáng nghiệp).

Lời tòa soạn: TS Trần Thị Bích Liễu, một nhà khoa học giáo dục, từng nghiên cứu giáo dục ở Mỹ theo chương trình học bổng Fulbright, gửi tới VietNamNet những chia sẻ của mình về một nền giáo dục sáng tạo, cũng là gửi gắm khát vọng về một nền giáo dục hiện đại mà ở đó, với môi trường tự do được bảo đảm, con người sẽ được khai phá những năng lực tiềm ẩn của mình để góp sức tạo ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp cho xã hội.

Những năm gần đây, các nhà chính trị và các nhà khoa học đã có nhiều nỗ lực nhằm tạo nên sự thay đổi cho nền giáo dục, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và của nền kinh tế tri thức trên toàn cầu.

Đổi mới toàn diện và sâu sắc nền giáo dục Việt Nam (tên một Nghị quyết của Đảng Cộng sản) không thể không đề cập đến việc phát triển một nền giáo dục sáng tạo.

5 lí do để phát triển nền giáo dục sáng tạo

Nền kinh tế thị trường về bản chất đòi hỏi sự sáng tạo của con người bởi hai đặc tính cơ bản: sự cạnh tranh và quyền tự do mà nó ban tặng.

Sự cạnh tranh đòi hỏi rất nhiều sáng tạo để tạo ra những sản phẩm mới, hàng hóa mới và các dịch vụ mới nhằm chiến thắng các đối thủ.

Với quyền tự do, con người luôn đổi mới và sáng tạo để làm cho sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình có tính cạnh tranh cao và thu được nhiều lợi nhuận nhất.

Thế kỉ 21 là thế kỉ của nền kinh tế tri thức và các xã hội sáng tạo

Một lý thuyết khá hiện đại và mang tính dự báo cao về sự phát triển của giáo dục, đó là sự phát triển qua ba hình thái xã hội và việc thiết kế thế hệ giáo dục 3.0.

Giáo dục 1.0 gắn với xã hội tiền công nghiệp, công nghiệp và xã hội thông tin mà ở đó, giáo dục chỉ đào tạo để người học có được các kĩ năng thực hiện tốt công việc của mình.

Giáo dục 2.0 gắn với xã hội tri thức hay dựa trên tri thức bị ảnh hưởng bởi các thế lực của mạng cộng tác kĩ thuật và toàn cầu hóa.

Trong xã hội này, kiến thức mới là quan trọng và nhất là việc biến thông tin thành kiến thức.

Giáo dục trong xã hội đó đào tạo những con người biết sáng tạo ra kiến thức và các giá trị của riêng mình hơn là chỉ thành thạo các thao tác công việc.

Giáo dục 3.0 phục vụ sự phát triển của xã hội sáng tạo, xã hội của các mối quan hệ toàn cầu và được tạo dựng bởi những knowmads- những con người lao động sáng tạo, giàu trí tưởng tượng, có năng lực phát minh, sáng chế, có thể làm việc bất kì đâu, bất kì lúc nào và với bất kì ai.

Toàn cầu hóa và các hợp tác qua các mạng xã hội để sáng tạo tri thức mới ngày càng phổ biến.

Việt Nam cần có chỗ đứng và khẳng định mình trên các diễn đàn tri thức này cũng như đóng góp vào sự phát triển các sáng kiến phát minh của nhân loại.

Sáng tạo đem lại lợi nhuận kinh tế lớn và có ý nghĩa xã hội – nhân văn lớn

Nhiều ý tưởng sáng tạo tạo nên những sản phẩm khoa học có trị giá hàng tỉ đô la như các phát minh về điện, về bóng đèn, máy vi tính, các thiết bị viễn thông, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, robot, các chip điện tử sử dụng trong y học…Những phát minh này không chỉ mang lại nguồn lợi kinh tế mà còn giúp bảo vệ môi trường, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người.

Người Việt thông minh và giàu tiềm năng sáng tạo

Học sinh, sinh viên Việt Nam học ở nước ngoài luôn đạt những thành tích tốt, có nhiều giải thưởng và sáng kiến được các nhà khoa học quốc tế đánh giá cao.

Một nghiên cứu gần đây của các giáo sư ở Trường ĐH Bắc Kinh chỉ ra rằng, khi du học, các em có nhiều tự do hơn, được học trong những môi trường học tập tốt hơn, tự chịu trách nhiệm về việc học tập của mình nên học tập có kết quả cao hơn.

4 yếu tố cần để có sáng tạo

Sáng tạo là khả năng của một con người, của một tổ chức đưa ra những ý tưởng mới, tư duy theo cách mới, nhìn thấy vấn đề mới trong các vấn đề cũ.

Sáng tạo là kĩ năng sản sinh ra các ý tưởng hay các thiết kế về sản phẩm mới, chất lượng cao và có giá trị cao.

Sáng tạo bao gồm con người (chủ thể của sự sáng tạo), quá trình (tâm lí và xã hội), môi trường và sản phẩm.

Để sáng tạo, cần có các yếu tố:

Năng lực và phẩm chất cá nhân mỗi người: tính kiên trì, sự ham hiểu biết, óc tò mò, sự lao động cần cù và đam mê, khả năng giải quyết vấn đề, tư duy linh hoạt…

Tiềm năng sáng tạo còn ít được khám phá do những quan niệm cho rằng năng lực sáng tạo là cao siêu hay do tính tự kỉ của con người cho rằng mình không có.

Lí do quan trọng hơn là nền giáo dục còn chưa chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, chương trình dạy dỗ nặng về nhồi nhét tri thức, đồng nhất người học và khá xa lạ với các ý tưởng sáng tạo.

Các quá trình tâm lí – xã hội: Cảm xúc tạo nên những giây phút thăng hoa và khởi nguồn của sáng tạo. Các hoạt động của bộ não ở những người khác nhau thì khác nhau và sự khác nhau của não bộ trái và não bộ phải tạo ra 7 loại hình trí tuệ khác nhau và tạo nên các cách thức sáng tạo khác nhau.

Sản phẩm sáng tạo: các ý tưởng được thực hiện, đi vào cuộc sống.

Môi trường sáng tạo: Một tổ chức, một đất nước sáng tạo là một đất nước có môi trường tự do khuyến khích các ý tưởng mới và cung cấp các điều kiện để biến các ý tưởng thành các sản phẩm mới, các dịch vụ mới phục vụ con người. Đó cũng là lí do vì sao càng ngày càng có nhiều nước chuyển sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường.

Điều quan trọng nhất: Để sáng tạo, lãnh đạo phải biết lắng nghe

Một đất nước sáng tạo cũng biết cách sự học tập và ứng dụng các ý tưởng sáng tạo từ những người khác, các tổ chức và quốc gia khác.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Singapore khi sang làm việc với Học viện Quản lí giáo dục tháng 7/2007 đã nói rằng Singare các lãnh đạo không phải là các nhà chuyên môn nhưng biết lắng nghe ý kiến của các chuyên gia và lựa chọn những ý tưởng độc đáo cho phát triển.

Cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu nói rằng, ông học các kinh nghiệm của các nước khác để giải quyết vấn đề mà Singapore gặp phải dựa vào hoàn cảnh nước mình chứ không phải áp dụng rập khuôn.

Ở nền giáo dục sáng tạo, con người dạy với các phương pháp dựa trên nền tảng của trí tưởng tượng và phát triển các năng lực tưởng tượng.

Albert Einstein đã kết luận: “Suy luận logic dẫn bạn từ A đến B. Sự tưởng tượng dẫn bạn đến khắp mọi nơi”.

Tư duy đa chiều, nhìn nhận sự vật từ những góc cạnh khác nhau là các yếu tố cần thiết của sáng tạo và có nhiều phương pháp để phát triển các năng lực tư duy như vậy, như phương pháp tư duy khác thường, tư duy phân kì, các phương pháp động não…

Nền giáo dục sáng tạo cần có môi trường tự do, các điều kiện khuyến khích phát triển từ lãnh đạo cấp cao.

Nếu thiết kế lại mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức dựa trên các tri thức và phương pháp sáng tạo, nền giáo dục Việt Nam sẽ phát triển được nhiều năng lực sáng tạo đang tiềm ẩn trong con người.

Nguồn: VIETNAMNET

Người lớn đang kéo lùi trẻ con về giá trị cũ

Người lớn phải thay đổi theo trẻ em thì mới có thể “dạy” được chúng. Trong mối quan hệ thầy trò, học sinh chính là động lực bắt người thầy phải thay đổi để có thể hòa hợp được với lớp trẻ mới lên.Thế nhưng các thầy các cô đã quá quen với ngôi cao của mình, sự uy nghi đó ngăn cản thầy cô đối xử bình đẳng với học sinh, họ vừa không muốn thay đổi, vừa không biết cách thay đổi để rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò.

Có một tình thế trớ trêu là trong lớp thì trò không biết nói gì với thầy (thầy độc thoại) còn ra ngoài cuộc sống thì thầy không biết nói gì với trò. Mà lỗi thì hẳn nhiên thuộc về thầy cô, thuộc về người lớn.

+ + + + +

Tốt nghiệp tiến sỹ Vật lý tại Cộng hòa Pháp năm 2007, hiện là giảng viên của Học viện Kỹ thuật quân sự, nghề dạy học đã cho tiến sĩ (TS) Nguyễn Thành Nam cơ hội làm thầy của nhiều đối tượng người học, từ học sinh tiểu học tới sinh viên đại học. Sau tất cả những trải nghiệm đó, anh nhận ra rằng: Người lớn thừa hưởng những giá trị cũ, niềm tin cũ và vì thế, họ kéo lùi trẻ con lại.

Trải qua môi trường giáo dục trong và ngoài nước, lại là thầy của đủ các đối tượng học sinh, anh thấy vai trò người thầy ngày nay có thay đổi gì?

Thực ra, mọi sự thay đổi của người thầy đều bắt đầu từ sự thay đổi của học sinh.

Tôi nhìn thấy vấn đề lớn nhất hiện nay là trò thì thay đổi rất nhanh trong khi thầy chẳng chịu thay đổi gì cả. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì lớp già bị níu giữ bởi các giá trị cũ nên thường bị lạc hậu so với lớp trẻ.

Hãy nhìn vào lớp học trò bây giờ mà xem, ta sẽ thấy họ rất khác với thầy cô của họ. Không chỉ có vậy, lớp trẻ lại đang thay đổi rất nhanh khiến cho khoảng cách giữa thầy và trò mỗi ngày cứ toang hoác mãi ra.

Nói như GS Hồ Ngọc Đại thì “trẻ em là đứa con của thời đại”, tức là trẻ em là tiên tiến nhất, trẻ em luôn đúng.

Người lớn phải thay đổi theo trẻ em thì mới có thể “dạy” được chúng. Trong mối quan hệ thầy trò, học sinh chính là động lực bắt người thầy phải thay đổi để có thể hòa hợp được với lớp trẻ mới lên.

Thế nhưng các thầy các cô đã quá quen với ngôi cao của mình, sự uy nghi đó ngăn cản thầy cô đối xử bình đẳng với học sinh, họ vừa không muốn thay đổi, vừa không biết cách thay đổi để rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò.

Vậy khi đi dạy, anh thấy có khoảng cách như thế nào với lớp trẻ bây giờ?

Có một tình thế trớ trêu là trong lớp thì trò không biết nói gì với thầy (thầy độc thoại) còn ra ngoài cuộc sống thì thầy không biết nói gì với trò. Mà lỗi thì hẳn nhiên thuộc về thầy cô, thuộc về người lớn.

Tôi có thể cảm nhận khá tốt mọi điều nên luôn có ý thức tiếp cận gần với bọn trẻ. Nhưng mà…vẫn xa cách lắm. Nhưng cái xa cách đáng nói nhất của trẻ em Việt Nam bây giờ là có vẻ nó bị người lớn kéo lùi chúng lại quá nhiều so với thế giới.

Những buổi đầu tiên tôi dạy ở ĐH, tôi độc thoại trên bảng và tìm mọi cách để kích hoạt các bạn trẻ lên. Và chúng vẫn không chịu tham gia ý kiến…Với những người thầy cũ cứ lên bảng giảng như thế, và chúng cứ ngồi im, không có khả năng động não, hoàn toàn thụ động.

Trẻ con Việt Nam đang bị phân hóa rất lớn. Phần lớn trẻ ở chỗ tôi dạy từ nông thôn đi ra. Chúng bị kéo lùi lại với người lớn. Trong khi lớp học sinh khác ở thành phố, ở nơi hiện đại chúng vươn ra thế giới mạnh hơn. Lớp trẻ bị kéo dãn về hai phía, chúng xa lạ với nhau. Tôi không hiểu điều này rồi sẽ gây ra vấn đề gì trong xã hội?

Sự thay đổi nhìn thấy rõ ở các trường dân lập ở thành phố. Ở đó, giáo viên chạy hụt hơi theo phụ huynh. Phụ huynh thì chạy hụt hơi theo con cái của họ. Phụ huynh được đặt lên trên nhưng họ chưa đủ năng lực để thực hiện sự tự do của họ.

Phụ huynh yêu cầu nhà trường đủ thứ. Nhưng bi kịch là phụ huynh không hiểu con của họ nốt. Họ cũng là người lớn và họ thừa hưởng những giá trị cũ.

Nhà trường phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nhưng làm chương trình mới thì quá sức nên họ làm trường đẹp hơn. Nhưng thầy giáo, vẫn là của hệ thống cũ. Họ vừa phải áp một mô hình cũ, vừa phải đáp ứng những yêu cầu mới. Cực kỳ mệt mỏi.

Có chăng, chúng được học thêm một số môn: tiếng Anh, kỹ năng sống. Đây là kiểu thay đổi rất ngẫu hứng, tự phát, được chăng hay chớ. Dạy đến bao giờ cho hết kỹ năng sống vì nó không có một hệ thống nào cả.

Trong cuộc giằng co giữa học trò và người thầy, người thầy hiện nay dạy theo cách cũ, sống trong một xã hội cũ. Ở những trường công lập người thầy vẫn giữ uy thế của mình, học trò phải theo thầy.

Trẻ con, bạn dạy cái gì sẽ được cái đó. Công cuộc giáo dục này gian nan nhất là giáo dục lại người lớn. Vì họ không thừa nhận thì họ không dạy trẻ con như thế. Mà người lớn thì bị níu giữ bởi những giá trị cũ, niềm tin cũ.

Phương pháp của anh sẽ gặp phải những phản ứng khi phụ huynh chưa thay đổi?

Tôi đã từng gặp trường hợp như thế này. Khi tôi nói với một cô giáo: Khi cô cho đứa trẻ nối một phép tính và đáp số, nó có thể dùng bút vẽ, dùng thước để kẻ. Mục đích chính là xem đứa trẻ có xác định đúng phép tính này gắn với kết quả này hay không?

Nhưng khi cô cho em dùng thước điểm cao thì thực tế đã lệch ra khỏi mục tiêu môn học. Hơn nữa, các em đang ở lứa tuổi phải hoàn thiện giác quan, cơ bắp thì em dùng tay nên được khuyến khích vì em luyện được sự khéo léo của đôi tay.

Tôi vừa nói, một phụ huynh đứng lên “phang” ngay: “Cái đó anh lên giáo dục mà ý kiến. Ở đây các thầy cô làm thế là đã quá tuyệt!”

Với khối phụ huynh như thế, tôi cũng chịu chết. Cũng như cha mẹ thương con, thuê dịch vụ tặng quà Nô-en nhưng thực chất, làm như thế là giết chết ông già Nô-en trong tưởng tượng của đứa trẻ.

Với con trai tôi, tôi cho con viết thư cho ông già Nô-en. Con tin là có ông già Nô-en. Con tôi đã viết cả một tập thư để gửi cho ông già Nô-en.

Mục đích của tôi là nuôi dưỡng trí tưởng tượng của con. Hai nữa là để con viết. Nếu yêu cầu trẻ con viết thì rất khó. Nhưng khi con chơi trò đó, con học xong có thể viết cả trang giấy mà không thấy mệt mỏi gì cả. Cách sống và ứng xử với trẻ con, không phải cứ theo tình thương là đúng, mà phải biết.

Nhưng thực sự tôi nghe những điều anh nói chỉ phù hợp với những phụ huynh có tri thức và mong muốn, có ý thức tìm hiểu về việc nuôi dạy trẻ con. Để phổ biến được điều đó trong xã hội, tôi e là rất khó?

Mình phải nói điều ấy ra. Họ sẽ lắng nghe và sẽ có những người họ có văn hóa hơn, họ sẽ hiểu và áp dụng. Ngay cả chuyện đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng sẽ nói cho phụ huynh hiểu mọi điều. Việc của tôi chỉ là bật một cái công tắc có tên là “trẻ con khác quá”. Nếu mình không biết thì mình không dạy được nó đâu. Khi công tắc đó bật lên thì họ sẽ tự tìm hiểu mọi chuyện.

Chẳng hạn, khi bạn lên google, phần hình ảnh, gõ bất kỳ từ khóa nào cũng có hình sex trong đó. Tức là con em sinh ra đã tiếp xúc với sex. Chúng ta có thể kiểm soát hoàn toàn việc vào mạng của con không? Vậy nên phải chấp nhận thực tế và thay đổi để hướng dẫn con.

Cảm ơn TS Nguyễn Thành Nam!
Nguyễn Hường (thực hiện)
Nguồn : VVN

Thưa thầy

Tôi luôn gọi người dậy tôi là thầy, nhưng tôi rất sợ những ai gọi tôi là thầy, bởi vì như vậy là người ta trao cho tôi một trách nhiệm. Tôi luôn luôn xem làm thầy là một việc rất nghiêm trang, rất cao quý và nặng nề trách nhiệm. Ai lặng lẽ quan sát tôi, lặng lẽ học tôi mà không gọi tôi là thầy là tôi thích nhất, vì họ không khoác cho tôi gánh nặng trách nhiệm tinh thần về cái mà họ quan sát được ở tôi…

Trong ký ức của ông Tổng Giám đốc Nguyễn Trần Bạt, chỉ có những thầy cô giáo gợi cho ông những “sự cao thượng, sự cao quý đẹp đẽ của họ, đấy là tấm gương gợi cho tôi về đức hạnh về trí tuệ, và sự chân thật”. Nhưng trong đời mình, ông “rất sợ người khác gọi là thầy” vì ông “luôn luôn xem thầy là một cái gì đó rất nghiêm trang, rất cao quý và nặng nề trách nhiệm”.

“Né” các thầy cô, nhưng không bao giờ cãi lại

Tôi có một lịch sử học vấn khá phức tạp. Như nhiều thanh niên khác, tôi đi qua tất cả các cấp của giáo dục phổ thông một cách bình thường, nhưng phải đi qua giáo dục đại học bằng nhiều hình thức, cả giáo dục chính thống, cả giáo dục chuyên tu và tại chức. Vì thế, tôi có rất nhiều ấn tượng về những người thầy. Từ khi còn bé cho đến khi tốt nghiệp phổ thông, tôi luôn luôn là một học sinh cá biệt, nghịch ngợm, táo tợn, nhưng không phải là đứa trẻ hư. Theo các tiêu chuẩn thông thường của một nhà trường thì tôi là một học sinh cá biệt. Càng cá biệt bao nhiêu, sự va chạm với thầy càng dữ dội bấy nhiêu. Và vì thế, tôi rất nhớ các nguồn của kiến thức, của sự thức tỉnh và của các ấn tượng của tôi về nhà trường.

Tôi nhớ hồi học lớp 1, lớp 2, có một cô giáo tên là Ngọc, bây giờ nếu còn sống bà cũng phải 80-90 tuổi rồi. Bà dạy chúng tôi vẽ. Một hôm bà mang một quả đu đủ đến để làm mẫu. Khi học vẽ thì người ta phải dùng bút chì để đo vẽ kích thước vật mẫu. Các bạn khác đo, còn tôi thì ngắm rồi lao cây bút chì như một mũi tên vào quả đu đủ. Hồi học cấp I, tôi có một thầy giáo rất nổi tiếng ở trường tên là Bái, ông là người nghiêm khắc vô cùng. Mỗi buổi sáng đến lớp chúng tôi phải nộp cho ông một cái thước kẻ. Ông luôn dùng cái thước kẻ chúng tôi đưa cho ông để đánh vào tay chúng tôi nếu chúng tôi nghịch ngợm. Và tôi là người bị đánh nhiều nhất trong lớp của ông. Với các thầy cô, tôi không những kính trọng mà còn yêu quý. Nếu tôi không tìm được sự yêu quý, có lẽ tôi không xây dựng được quan hệ đối với mọi người. Cho nên, tôi vừa kính trọng, vừa yêu quý các thầy, cô của tôi. Tôi chưa bao giờ cãi các thầy cô của tôi. Trốn thì có, tránh cũng có. Vì nghịch quá cho nên trông thấy các thầy, cô thì tôi “né”, nhưng cãi thì không.

Có rất nhiều người trong số các thầy, cô của tôi đã mất rồi. Nhưng phải nói rằng ấn tượng chung nhất để lại cho tôi từ các thầy, cô giáo từ thời phổ thông là thế hệ của họ đẹp đẽ, cao quý và tài hoa lắm. Đấy là cái giai đoạn mà các thầy, các cô của tôi dạy tôi làm người, và vì là học sinh cá biệt nên mật độ các mối quan hệ dạy làm người đối với tôi càng lớn. Theo quan niệm của các thầy, các cô, các học sinh cá biệt cần phải được rèn luyện để có phong cách, tư cách chuẩn mực theo quan niệm của hệ thống giáo dục ở thế hệ của tôi. Và có lẽ đấy là thời điểm mà các thầy cô gợi cho tôi rất nhiều điều sau này khi trưởng thành tôi đã sử dụng và khai thác một cách thành công trong phạm vi của tôi.

“Em xin phép thầy về cưới vợ”

Tôi học đại học muộn hơn những người cùng tuổi khoảng 4 năm, bởi vì tôi đi bộ đội. Phải nói rằng, quân đội cũng là một nhà trường, đấy là một giai đoạn giáo dục nhân cách rất quan trọng. Tôi nhớ mãi vào lúc tôi mới ở tuổi 17, 18, khi tôi còn là lính, có một người làm chính trị viên trong đại đội của tôi một hôm gọi tôi ra bảo: “Bạt, nói gì mà nói lắm thế”. Từ đó tôi mới sực tỉnh ra rằng nói lắm là một thói xấu.

Những khi máy bay địch bay đến bắn phá, rất nhiều chỉ huy của tôi nói với tôi rằng: “Thật ra, nhân cách cơ bản của con người thể hiện trong đời sống là lòng dũng cảm, sao trông thấy máy bay bắn mà mặt cậu lại tái nhợt đi thế“. Sau đó tôi cũng không tái mặt như thế nữa, có lẽ do kinh nghiệm, có lẽ do thức tỉnh từ sự nhắc nhở như vậy về nhân cách và lòng dũng cảm. Sau này, khi làm nhiều việc khác, tôi hiểu rằng lòng dũng cảm quan trọng lắm. Cho nên, giai đoạn ở bộ đội cũng là giai đoạn tôi đi học, học lòng dũng cảm của con người trước các sự khủng hoảng của đời sống, trước các nguy khốn của đời sống.

Tôi là một người sống tự lập, rất ít khi tôi kêu cứu ai, kể cả bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi không có nhiều may mắn lắm trong việc trợ giúp tôi khi tôi kêu cứu. Tôi phải tự lập từ nhỏ, vì thế cho nên tôi không kêu cứu, nhưng tôi biết sử dụng những sự trợ giúp hồn nhiên, vô tư của các thầy đối với mình. Tôi xin kể một ví dụ. Tôi cưới vợ vào những năm người Mỹ đánh bom ở Hà Nội. Trường của tôi lúc đó sơ tán ở trên Phúc Yên, Hương Canh, tôi nói với thầy giáo của tôi, một người khá nổi tiếng trong nghề, là giáo sư Lê Văn Thưởng rằng: “Em xin phép thầy về Hà Nội để cưới vợ”.

Lúc bấy giờ Bộ Đại học có chủ trương sinh viên buộc phải sơ tán triệt để ra khỏi Hà Nội, thế mà tôi lại xin về Hà Nội để cưới vợ. Ông bảo tôi thế này: “Tớ không thể cho phép cậu về nhà cưới vợ được, nhưng tớ sẽ không cấm cậu về nhà lấy vợ“. Lúc đấy tôi chừng 25, 26 tuổi, câu ấy với tôi khó hiểu lắm. Sau này tôi học được sự khôn ngoan ấy, tức là ông rất thông cảm với tôi chuyện cưới vợ, vì cưới vợ làm sao hoãn lại được. Nhưng ông không thể vi phạm kỷ luật của Bộ Đại học để cho một sinh viên về Hà Nội cưới vợ, vậy thì tôi phải tự động về, nếu có gì xảy ra thì tôi ráng phải chịu. Nhưng thầy dặn tôi “Phải hết sức cẩn thận cậu ạ“.

Thầy trò chúng tôi là những người dày dạn trong chiến tranh, chúng tôi đi đảm bảo giao thông, chúng tôi không sợ chết, vì đạn bom ở chỗ các công trình ấy còn nhiều hơn ở Hà Nội. Ông và tôi, cả hai thầy trò đều hiểu hết: có về cũng không chết được. Ông yên tâm về việc tôi không chết được và ông để yên cho tôi về, nhưng ông không thể vi phạm luật của Bộ để cho phép tôi về. Sau này tôi ứng dụng kinh nghiệm ấy của ông cho rất nhiều việc. Tất cả sự khôn ngoan của những người thầy như vậy đi cùng với tôi trong tất cả các thành công của tôi. Đấy là sự trợ giúp quan trọng nhất và phổ biến nhất mà thầy có thể cung cấp cho trò.

“Thưa thầy”, chứ không phải là “thưa Bộ trưởng”

Giai đoạn đại học là giai đoạn dễ nhớ nhất, bởi vì lúc ấy, ý thức của tôi đã phát triển tương đối đầy đủ để có thể có những ghi nhận có nội dung về quá trình giáo dục của mình. Hiện giờ, các giáo sư dạy đại học của tôi hầu hết vẫn còn sống. Tôi học khoa Cầu đường của trường Đại học Xây dựng, chủ nhiệm khoa của tôi là giáo sư Đặng Hữu, đã có thời kỳ làm thủ trưởng của tôi với tư cách là Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Tôi vẫn giữ quan hệ với giáo sư từ khi ông còn hàn vi, khi ba thế hệ trong gia đình ông còn ở trong một căn hộ khoảng hơn 20m2, chứ không phải sau này khi ông làm Bộ trưởng.

Trong những thầy giáo của tôi còn có giáo sư Đỗ Quốc Sam, sau này cũng có thời gian làm thủ trưởng của tôi với tư cách là Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng Cơ bản Nhà nước. Tôi rất nhớ sự nho nhã của ông, sự khôn ngoan của ông khi ứng xử trong những tình huống khó, vừa với tư cách thủ trưởng, vừa với tư cách là cựu thầy giáo của tôi. Tôi giữ quan hệ với nhiều thầy giáo lắm. Tôi vẫn giữ quan hệ với giáo sư Lê Văn Thưởng từ khi tôi học ông năm 1967 cho đến bây giờ. Thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm ông, không phải chỉ như một người thầy mà còn như một đồng nghiệp thân tình. Giáo sư Lê Văn Thưởng cũng ở trong căn buồng không đến 20m2. Sống trong điều kiện chật hẹp một cách khủng khiếp như vậy mà họ vẫn bám lấy khoa học.

Lúc bấy giờ giáo sư Đặng Hữu và giáo sư Lê Văn Thưởng không hề nghĩ rằng mình sẽ làm Bộ trưởng, sẽ làm Vụ trưởng hay được phong giáo sư. Vào những thời điểm ấy họ không có khái niệm về sự ưu đãi khi trở thành Bộ trưởng và họ không nghĩ là họ làm Bộ trưởng. Vậy cái gì làm cho họ trở thành Bộ trưởng? Cái gì làm cho họ gắn bó với khoa học? Có lẽ là tình yêu đối với khoa học của họ. Họ đã đi qua tất cả những giai đoạn hàn vi của con người, nếu không đủ nghị lực và phẩm hạnh thì họ không thể có tương lai, có sự nghiệp như vậy. Tôi quý trọng những người như vậy là vì tôi biết trên con đường đi đến thành công, họ phải đi qua những gì. Tất cả những quan sát ấy luôn luôn là nhiên liệu để tôi đốt cháy toàn bộ cảm hứng của tôi và tâm hồn tôi trong những lúc tôi cảm thấy khó khăn.

Bây giờ tôi không có những khó khăn cụ thể như 20-30 năm trước nữa, nhưng với tư cách là một nhà khoa học, một nhà nghiên cứu, tôi luôn luôn có những khó khăn khi vượt qua giới hạn của nhận thức. Những khó khăn đó nói ra không phải ai cũng hiểu, nhưng với tư cách là người nhận thức chuyên nghiệp thì chúng ta luôn phải vượt qua hàng ngày. Chúng ta thưởng thức những lẽ phải của Socrate, của Plato, của Kant… nhưng chúng ta phải biết rằng để có được những lẽ phải ấy, họ phải trèo núi hàng ngày, hàng giờ trong đời sống tinh thần. Đấy chính là lao động, là công lao, là cống hiến của họ đối với việc cung cấp các lẽ phải hàng ngày cho con người.

Tôi hết sức tự hào về các thầy của tôi, cả những thầy trở thành Bộ trưởng, cả những thầy không trở thành Bộ trưởng, những giáo sư như giáo sư Dương Ngọc Hải xắn quần đi đảm bảo giao thông, giáo sư Nguyễn Trâm ăn cơm cháy với công nhân cầu đường… Tôi chỉ có những thầy giáo gợi cho tôi những sự cao thượng, sự đẹp đẽ của họ, đấy là những tấm gương gợi cho tôi về đức hạnh, về trí tuệ và sự chân thật. Đến bây giờ tôi vẫn giữ được quan hệ rất chân thật với các thầy của tôi, dù họ thành đạt đến đâu thì tôi vẫn xem họ là thầy. Tôi chưa bao giờ gọi những người đã dạy tôi, những người như giáo sư Đỗ Quốc Sam, giáo sư Đặng Hữu và nhiều giáo sư khác là “Thưa Bộ trưởng”, mà tôi nói “Thưa thầy”. Tôi vẫn giữ được sự “Thưa thầy” mặc dù từ khi tôi ra trường đến giờ đã hơn 30 năm.

Đạo lý thầy trò và “nguyên lý bình thông nhau”

Tôi nghĩ rằng, nếu một người không kính trọng những người thầy của mình thì những người xem anh ta là thầy sẽ không kính trọng anh ta và anh ta sẽ không thể hiểu được qui luật của quan hệ giữa những người có kiến thức, có kinh nghiệm với những người ít kiến thức, ít kinh nghiệm hơn. Qui luật của truyền bá là qui luật hoàn toàn tự nhiên, nó tuân theo nguyên lý bình thông nhau, trí tuệ ở chỗ có thế năng lớn sẽ chảy xuống chỗ có thế năng thấp hơn, không có trường hợp nào trí tuệ chảy ngược lên cả, và ở chỗ nào người ta thấy trí tuệ chảy ngược lên thì ở đấy có khủng hoảng. Chúng ta phải luôn biết quan sát để tìm ra cái thời điểm khủng hoảng của đời sống xã hội khi thấy trí tuệ ở chỗ thấp có thế năng lớn hơn trí tuệ ở trên cao.

Một người thầy cũng như một người lãnh đạo cần phải xây dựng cho mình một thế năng, tức là một mức trí tuệ đủ để tạo ra dòng chảy của kiến thức và kinh nghiệm từ mình đến những người dưới quyền mình. Đấy là qui luật của sự phát triển. Nếu không có phẩm hạnh cao hơn, nếu không có trí tuệ cao hơn, không có tình yêu cao hơn thì anh không thể tạo ra dòng chảy từ mình đến những chỗ thấp hơn, không có cái gì để chảy đi và cũng không có cái gì chảy đến cả. Đấy là một thông điệp mà tôi muốn nói với thế hệ trẻ. Chúng ta buộc phải học, chúng ta phải đi tìm cái để học và đi tìm người để học. Chúng ta không may có một chỗ học mà không có quan hệ theo định luật bình thông nhau thì chúng ta buộc phải bù bằng cách đi tìm ở những chỗ mà qui luật ấy tồn tại. Nếu chúng ta không biết tự đi tìm để bù đắp sự thiếu hụt như vậy thì chúng ta sẽ trở thành một người ngu dốt khi trưởng thành. Chúng ta phải chủ động bổ sung sự thiếu hụt trong quan hệ đào tạo nếu chúng ta không may buộc phải học ở chỗ mà qui luật ấy không được thoả mãn.



Thế hệ các thầy giáo của tôi là thế hệ phi kinh doanh. Trong các giáo sư dạy tôi không có giáo sư nào có kinh nghiệm kinh doanh cả. Đấy là một sự thiếu hụt của các thầy của tôi, cho nên, tôi phải đi học kinh doanh ở chỗ khác và tự học là chính. Tuy nhiên, kinh doanh không phải là tất cả các hoạt động của con người hay kiến thức kinh doanh không phải là tất cả sự thành đạt của một nhà kinh doanh. Cái mà tôi học được ở các thầy giáo của tôi sự trung thực khoa học, đấy là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để tạo ra một nhà kinh doanh đứng đắn và thành công. Bởi vì, nếu không tư duy một cách trung thực và có chất lượng khoa học thì không thể kinh doanh được. Kinh doanh không phải là lừa đảo, không phải là dối trá. Kinh doanh là một khoa học. Là một người buôn bán chụp giật thì cần sự khôn ngoan, láu cá, nhưng là một nhà kinh doanh thực sự thì vô cùng cần sự trung thực khoa học. Các thầy giáo của tôi tạo cho tôi một sự trung thực khoa học. Đấy là trí tuệ quan trọng mà các thầy truyền cho tôi, mặc dù kiến thức của họ không liên quan trực tiếp đến kinh doanh.

Tôi luôn gọi người dậy tôi là thầy, nhưng tôi rất sợ những ai gọi tôi là thầy, bởi vì như vậy là người ta trao cho tôi một trách nhiệm. Tôi luôn luôn xem làm thầy là một việc rất nghiêm trang, rất cao quý và nặng nề trách nhiệm. Ai lặng lẽ quan sát tôi, lặng lẽ học tôi mà không gọi tôi là thầy là tôi thích nhất, vì họ không khoác cho tôi gánh nặng trách nhiệm tinh thần về cái mà họ quan sát được ở tôi…



Nguyễn Trần Bạt.
Nguồn: sưu tầm.

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

WTO: trường học, trường thi cho kinh tế VN

  Ông Nguyễn Trần Bạt được coi là người đầu tiên xây dựng một công ty Việt Nam tư vấn chuyên nghiệp về đầu tư và kinh doanh ngay sau khi Việt Nam ban hành chính sách “Đổi mới” năm 1987 mở cửa nền kinh tế Việt Nam cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Ông là tác giả của rất nhiều bài báo, sách và các công trình nghiên cứu tập trung vào nội dung làm thế nào Việt Nam phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá, là tác giả 3 cuốn sách viêt về lý luận chính trị và phát triển: “Văn hoá và Con người”, “Suy tưởng” và “Cải cách và sự phát triển”.  

WTO là một trường học, trường thi vĩ đại nhưng VN không thể sợ thi... Ý kiến của ông Nguyễn Trần Bạt, Tổng Giám đốc InvestConsult Group trong buổi trả lời phỏng vấn VietNamNet về việc VN gia nhập WTO và vấn đề đầu tư vào Việt Nam sau sự kiện này.
Việt Nam không phải là chân không!
- Ông có đánh giá như thế nào về sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam sau gia nhập?
Báo chí nói rất nhiều về chữ "hậu WTO". Đây là cách dùng không chính xác và dễ gây nhầm lẫn.
"Hậu" là cái đã qua, đã ra khỏi, trong khi Việt Nam chỉ mới bước vào.
Thậm chí chỉ vài ngày trước đây, PNTR vẫn chưa được Mỹ trao cho Việt Nam, nghĩa là một thành viên quan trọng của WTO vẫn còn chấp nhận Việt Nam chưa hoàn toàn trọn vẹn. Và bây giờ, có PNTR rồi, liệu có thể gọi là "hậu" được không?
Nếu trước đây Việt Nam gia nhập WTO thì dễ hơn nhiều. Lúc đầu WTO là một cái sân rộng, người ta khuyến khích vào, thậm chí không cần mua vé.
Khi mà cộng đồng đông thì ý chí của cộng đồng trở thành ý chí của nhiều người, là đòi hỏi của nhiều người. Cho nên càng ngày tiêu chuẩn của WTO càng khắc nghiệt và những kẻ vào sau sẽ phải đàm phán với rất nhiều điều kiện. Đó là một tất yếu, không nên sợ nó.
Ví dụ, thi là tất yếu đối với mọi sinh viên nên họ không thể sợ thi mà phải chuẩn bị học để thi. WTO là một trường thi đối với các quốc gia chậm phát triển như chúng ta. Chúng ta không thể sợ thi. Không nên đem những nguy cơ WTO ra để doạ xã hội.
Ta đã thấy nhiều bằng chứng về những bất lợi của Việt Nam khi không gia nhập tổ chức này. Chúng ta cũng thấy được lợi ích có được khi nhìn vào các thành viên gia nhập trước, mà cụ thể nhất là những láng giềng như Trung Quốc, Campuhica. Gia nhập trước, hàng hoá của họ, chí ít là Trung Quốc, tràn ra thị trường quốc tế một cách rầm rộ.
Cái lợi lớn sau gia nhập là Việt Nam sẽ được bình đẳng thuế quan với thế giới, thuế đánh vào hàng hoá Việt Nam trên thế giới sẽ giảm. Đó là cái lợi rõ ràng trông thấy.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam cũng không thể đánh thuế theo ý muốn. Ngân sách Nhà nước có thể sụt giảm. Điều này khiến nhiều người có cảm giác bị thất thiệt. Tuy nhiên, đối với người tiêu dùng, rõ ràng họ sẽ lợi lớn.
Chưa có WTO, không phải là không có cạnh tranh trên thị trường, nhưng chưa lành mạnh, chưa được điều chỉnh theo một hệ thống pháp luật minh bạch. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho cạnh tranh. Quy tắc cạnh tranh sau khi gia nhập WTO sẽ lành mạnh hơn, cạnh tranh cũng sẽ nhiều hơn.
Ngay từ trước khi gia nhập WTO, hàng Việt Nam đã có mặt và bán thành công ở nhiều thị trường đến mức gây ra những va chạm với hàng hoá ở các thị trường khác: như giày dép ở châu Âu, giày dép, quần áo và cá ở Mỹ...
Nhà nước sẽ gặp hai khó khăn cơ bản: đó là vấn đề thu thuế và vấn đề cải cách hành chính, cải cách pháp luật. Thực chất quá trình này chính là cải cách chính trị cho phù hợp với những đòi hỏi của WTO.
WTO không tàn phá gì cả, nó chỉ tàn phá những mặt cũ kĩ, những mặt lạc hậu, vô tổ chức, vô kỷ luật của các nền kinh tế để huấn luyện các nền kinh tế bán chuyên nghiệp trở thành những người chơi chuyên nghiệp.
Chắc chắn tất cả những yếu tố phi chuyên nghiệp, những yếu tố tạm bợ, những yếu tố không chính thống dần dần sẽ bị loại bỏ theo sự áp đặt các tiêu chuẩn mà các thành viên của WTO phải tuân thủ. WTO là một trường học vĩ đại để giáo dục các nền kinh tế chưa chuyên nghiệp.
Nếu năng lực sản xuất kém, nền kinh tế sẽ thành giếng gió của các nền kinh tế khác. Và nơi đó sẽ thành nơi gió đến còn không góp được gió ra. Tất nhiên, Việt Nam không phải là chân không!

Sẽ không có làn sóng đầu tư đột biến
- Thưa ông, với tư cách là một chuyên gia tư vấn đầu tư, ông nghĩ như thế nào về đánh giá cho rằng sẽ có làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam và làm thế nào để chúng ta có thể giữ chân được các nhà đầu tư. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy làn sóng đầu tư thứ nhất đổ vào VN hồi năm 1996, ngay sau đó vốn đầu tư sụt xuống còn một nửa?

Đó chỉ là hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 do bấy giờ Việt Nam mới chỉ huy động được các nhà đầu tư trong khu vực. Khi họ mất tiền do khủng hoảng tài chính 1997, họ phải rút về. Cần phải nói rõ để hiểu rằng các nhà đầu tư rút tiền vì họ thiếu chứ không phải vì sự xấu xí của nền kinh tế Việt Nam.
Hai là, liệu có làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam do tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO hay không? Theo tôi, lộ trình Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý đáp ứng các cam kết của WTO là 12 năm. Và làn sóng đầu tư cũng vậy. Nước sẽ dâng từ từ. Sẽ không có sự đột ngột, không có làn sóng đầu tư mới.

Tất nhiên, sẽ không thể phủ nhận việc đầu tư vào Việt Nam sẽ tăng lên trông thấy, thậm chí tăng nhanh hơn tốc độ cải thiện môi trường đầu tư của nước ta.

Họ sẽ là những người cũ, công ty cũ, những người đã làm ăn với Việt Nam hoặc nghiên cứu Việt Nam lâu năm, nay trong điều kiện ít rủi ro hơn, họ yên tâm triển khai ý đồ đầu tư từ trước.

Ví dụ Intel từ nhiều năm trước đã cùng với chúng tôi nghiên cứu đề xuất đầu tư vào Việt Nam qua một trung gian khác. Việc Intel mới đây nâng mức đầu tư lớn không phải là dấu hiệu của làn sóng đầu tư mới. Trước đây, họ đã đưa ra ba lựa chọn là Trung Quốc, Philipines và Việt Nam để đặt nhà máy chíp. So sánh môi trường vĩ mô thời điểm đó, họ đã không chọn Việt Nam.

5 - 7 năm sau, họ quay trở lại làm ở Việt Nam. Rõ ràng, những nhà đầu tư đến Việt Nam không phải vì họ hứng thú với cái mới. Nguyên nhân của việc đầu tư là họ đã lưu lại sự chú ý từ trước đó.

Ba là, làm thế nào để giữ chân nhà đầu tư? Chúng ta không thể giữ chân họ bằng một vài thủ thuật, một vài chiến dịch mà bằng toàn bộ cố gắng để xây dựng thể chế. Thể chế là yếu tố khó lường và quan trọng nhất. Bản chất của hội nhập là hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Chỉ có hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Việt Nam mới củng cố được lòng tin của nhà đầu tư, giữ được chân họ.

Ngoài ra, Việt Nam phải tăng sức mua nếu muốn tăng đầu tư. Không có sức mua, không thể có đầu tư. Ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, sức mua tăng hằng ngày. Tỷ lệ tăng sức mua càng cao phản ánh tình trạng phát triển của nền kinh tế đó.
Đầu tư vào Việt Nam sẽ có cả những người mới, nhưng người đến trước, sẽ là các nhà đầu tư đã nghiên cứu một cách có hệ thống ở Việt Nam.

Ba biện pháp giữ chân nhà đầu tư là xây dựng thể chế chuyên nghiệp, tạo môi trường vĩ mô tốt; nâng cao chất lượng giáo dục, từ đó đáp ứng tốt nhất đòi hỏi nguồn lao động chất lượng cao, năng lực tốt và ngày càng hiện đại; và nâng cao mức sống xã hội, tăng sức mua.

Điều này nhằm xây dựng khả năng làm nghĩa vụ thị trường của một nền kinh tế. Đã đến lúc Việt Nam không thể chỉ lo xuất khẩu, xây dựng nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Việt Nam phải lo làm nghĩa vụ thị trường. Đó không phải là tiêu chí của Chính phủ mà là sức mua của xã hội. Đây là ba điều kiện cơ bản để đảm bảo đầu tư vào và ở lại lâu dài.

Bài toán nhân lực: VN mới có đào tạo, chưa có giáo dục!
Tổng Giám đốc InvestConsult Group Nguyễn Trần Bạt.

- Một nội dung quan trọng để đảm bảo đầu tư như ông nói là phải nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người tuyển dụng. Vậy ông đánh giá như thế nào về chất lượng nguồn lao động Việt Nam sau khi tốt nghiệp Đại học?

Với tư cách là một người sử dụng lao động, tôi thấy rằng sinh viên được đào tạo hiện nay chỉ đáp ứng 15-20% nhu cầu khai thác của chúng tôi.

Chúng tôi phải tốn bằng hoặc khoảng 2/3 quỹ thời gian đào tạo ở đại học nữa nếu muốn làm việc tốt. Độ dài ngắn của thời gian phụ thuộc vào chương trình đào tạo ở Đại học.

Điều này phản ánh tính phi kinh tế của các chương trình đào tạo hiện nay. Giá trị thương mại, giá trị có ích của sinh viên đáp ứng rất hạn chế đòi hỏi của người sử dụng lao động.

Điểm yếu nhất của sinh viên tốt nghiệp là không hiểu biết về nền kinh tế, về môi trường xã hội. Do đó, họ không biết chuẩn bị cho mình một cách đúng đắn, rất lý thuyết. Họ chưa biết cách tiếp cận có ích, hiệu quả và thị trường.
Trước đây, họ đã đưa ra ba lựa chọn là Trung Quốc, Philipines và Việt Nam để đặt nhà máy chíp. So sánh môi trường vĩ mô thời điểm đó, họ đã không chọn Việt Nam.

5 - 7 năm sau, họ quay trở lại làm ở Việt Nam. Rõ ràng, những nhà đầu tư đến Việt Nam không phải vì họ hứng thú với cái mới. Nguyên nhân của việc đầu tư là họ đã lưu lại sự chú ý từ trước đó.

Ba là, làm thế nào để giữ chân nhà đầu tư? Chúng ta không thể giữ chân họ bằng một vài thủ thuật, một vài chiến dịch mà bằng toàn bộ cố gắng để xây dựng thể chế. Thể chế là yếu tố khó lường và quan trọng nhất. Bản chất của hội nhập là hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Chỉ có hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Việt Nam mới củng cố được lòng tin của nhà đầu tư, giữ được chân họ.

Ngoài ra, Việt Nam phải tăng sức mua nếu muốn tăng đầu tư. Không có sức mua, không thể có đầu tư. Ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, sức mua tăng hằng ngày. Tỷ lệ tăng sức mua càng cao phản ánh tình trạng phát triển của nền kinh tế đó.
Đầu tư vào Việt Nam sẽ có cả những người mới, nhưng người đến trước, sẽ là các nhà đầu tư đã nghiên cứu một cách có hệ thống ở Việt Nam.

Ba biện pháp giữ chân nhà đầu tư là xây dựng thể chế chuyên nghiệp, tạo môi trường vĩ mô tốt; nâng cao chất lượng giáo dục, từ đó đáp ứng tốt nhất đòi hỏi nguồn lao động chất lượng cao, năng lực tốt và ngày càng hiện đại; và nâng cao mức sống xã hội, tăng sức mua.

Điều này nhằm xây dựng khả năng làm nghĩa vụ thị trường của một nền kinh tế. Đã đến lúc Việt Nam không thể chỉ lo xuất khẩu, xây dựng nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Việt Nam phải lo làm nghĩa vụ thị trường. Đó không phải là tiêu chí của Chính phủ mà là sức mua của xã hội. Đây là ba điều kiện cơ bản để đảm bảo đầu tư vào và ở lại lâu dài.
Vấn đề không nằm ở giáo trình giảng dạy mà ở phương pháp dạy, phương pháp truyền đạt. Giáo dục của ta chưa đào tạo họ đủ để biến kiến thức thành đơn vị dịch vụ, do đó, chưa bán một hàng trọn vẹn.

Sinh viên Việt Nam học rất giỏi, ở bất kỳ đại học trong và ngoài nước nào, thi cử luôn đạt thứ hạng cao. Cái họ kém là họ bán dịch vụ chưa giỏi, bởi chưa ai nói cho họ biết tầm quan trọng của việc này. Họ chưa xác định được đối tượng phục vụ sau đào tạo. Do đó, người ta thuê anh vào và có thể phải thất vọng, mặc dù anh rất giỏi. Kiến thức có lúc trở thành kẻ phản bội anh.

Tôi cho rằng Việt Nam mới có đào tạo mà chưa có giáo dục. Đào tạo là trang bị kiến thức. Còn giáo dục là dạy cách thức phục vụ. Đây là khuyết tật phổ biến, quan trọng nhất của giáo dục Việt Nam.

Phương Loan (thực hiện)
NGUỒN: VNN

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

Nguyễn Trần Bạt - "Tổng tư lệnh" của những điều khác biệt

Nguyễn Trần Bạt – Tổng giám đốc công ty tư vấn đầu tư
InvestConsult Group. Ảnh do nhân vật cung cấp
Cầu đường, triết học và luật, những khúc nối có vẻ thiếu đồng điệu nhưng lại là những tổ hợp đồng điệu trong con người ông Nguyễn Trần Bạt - một vị tổng giám đốc đam mê quan sát cuộc sống. Chẳng ai ngờ cái thứ đam mê lạ lùng ấy, một ngày kia đã biến ông trở thành một trong những doanh nhân thành đạt bậc nhất Việt Nam.

Phiên dịch sự khác biệt
Trong một buổi giao lưu với sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân, ông Nguyễn Trần Bạt - Tổng giám đốc công ty tư vấn đầu tư InvestConsult Group đã tâm sự thế này: “Cái đáng giá nhất trong cuộc đời của tôi không phải là tạo ra một công ty mà là tạo ra được một nghề mới ở Việt Nam. Đó là nghề tư vấn đầu tư và phát triển các quan hệ thương mại”.

Cũng giống như Jeff Beros - ông chủ của Amazon.com, người mở đường cho cả một ngành thương mại điện tử đang bùng nổ khắp thế giới - câu nói hàm chứa nhiều sự tự hào này chính là bí quyết thành công của Nguyễn Trần Bạt: nhìn thấy và có khả năng hiện thực hoá điều nhiều người không thể.

Vốn là một kỹ sư cầu đường nhưng ông lại ham mê triết học và quan sát cuộc đời. Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, để tâm xem xét những biến động của tình hình quốc tế, ông đi đến một nhận định rằng “dứt khoát hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ” và “Việt Nam chắc chắn là phải có đổi mới”. Ông cho rằng khi thực hiện đổi mới, mở cửa sẽ có hai cộng đồng người gặp nhau: “người phương Tây không hiểu gì về Việt Nam và người Việt Nam chẳng hiểu gì về phương Tây”. Khi hai cộng đồng ấy mở cửa nhìn nhau và đều “ngọng” trong việc diễn đạt các nguyện vọng của mình, họ cần phải có một kẻ phiên dịch.

“Tôi lập công ty này với ý đồ trở thành kẻ phiên dịch sớm nhất cho sự khác biệt giữa hai hệ thống kinh tế, hai hệ thống chính trị và hai mức độ phát triển”, ông kết luận việc mình nhìn ra thị trường của một ngành kinh doanh hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam trong thời điểm ấy, một cách đầy triết lý như thế.

Được manh nha từ năm 1987 - khi ông còn công tác ở Bộ Khoa học Công nghệ, công ty của ông được chính thức thành lập năm 1989. Và hai năm sau, với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Chính phủ, ông quyết định đưa công ty của mình thành công ty tư nhân.
“Khi mới thành lập công ty, có người cho tôi là thằng khùng nhưng tôi phớt lờ. Tôi có cái để bán và rất nhiều người mua thì tại sao lại không làm - đó là trí khôn. Tôi khai thác những hiểu biết để cảnh báo rủi ra và biến chúng thành dự báo”. Ông cắt nghĩa ngắn gọn con đường mình đã và đang đi.

Từ khởi đầu với vỏn vẹn 3 người, đến nay, công ty của ông đã có hơn 300 nhân viên với các văn phòng đại diện ở thành Hà Nội, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Đến giờ công ty của ông đã trở thành một địa chỉ tư vấn tin cậy của không chỉ các công ty trong nước mà còn của các tập đoàn có tên tuổi trên thế giới như Coca-Cola, IBM, Nec, CitiBank hay Deawoo…

Khi kẻ “ngẩn ngơ” trở thành “tổng tư lệnh”
Khi được hỏi “thế nào là một CEO?”, ông đã không ngần ngại dùng một phép so sánh, mà đối trọng là nhà độc tài quân sự người Pháp Napoléon Bonaparte. Ông nói: “Tất cả các chủ tịch hay giám đốc của các tập đoàn kinh tế lớn (CEO) cần phải có những phẩm chất như Napoleon… Trong thời đại của chúng ta, CEO chính là những người chỉ huy, phụ trách các dự án kinh tế. Vì thế, họ phải có phẩm chất của một viên tướng. Mà chất lượng của một viên tướng là phải biết kết thúc hay nhất một trận đánh.


Tự nhận mình là “một kẻ ngẩn ngơ, dại dột trong cuộc sống hàng ngày”, nhưng trong kinh doanh, ông tự tin cho rằng mình là một CEO - một viên tướng, một tổng tư lệnh thực thụ. Bởi, ông có cách “điều binh” đặc biệt.

“Tôi không thuộc những người sử dụng lao động một cách tầm thường. Cho nên, nếu hỏi kinh nghiệm (sử dụng và đào tạo lao động) của tôi thì tôi sẽ nói kinh nghiệm của tôi không phổ biến trong xã hội. Tôi không làm gì cả”, ông nói. “Nếu linh cảm mách bảo tôi rằng người này có giá, tôi sẽ nhận vào làm ngay”.

Thứ “linh cảm” mà ông nói đến xuất phát từ việc “đo độ nhạy tinh thần” và “độ cao thượng trong đời sống tinh thần” khi ông tuyển dụng nhân viên. Theo ông, độ nhạy bén cộng với sự cao thượng sẽ tạo ra “khả năng không thể dự báo được về sự phát triển”.

“Tôi còn một cái khác nữa là những người tôi cần đào tạo, không bao giờ tôi chiều ngay từ đầu cả. Có những kẻ tôi dấu kín. Và 5 năm sau, tôi bỗng đưa lên từ một nhân viên thông thường thành một giám đốc công ty”.

Vị “tổng tư lệnh” 61 tuổi giải thích: “Thực phẩm của thiên tài là tự do. Mà điểm mấu chốt của tự do là quên đi sự lệ thuộc của mình vào lời khen, tiếng chê của người khác”.

Với quan niệm ấy, ông “khuyến khích sự sáng tạo, khuyến khích tự do đối với nhân viên của mình. Tự do đến làm việc cho tôi, nếu anh cảm thấy tự tin và tự do dời công ty của tôi nếu anh cảm thấy bất hạnh, anh cảm thấy không hạnh phúc”. "Tôi không giữ họ khi họ có đủ tài năng để có thể tìm kiếm những chân trời rộng hơn tôi. Tôi trân trọng điều ấy".

Kết quả của phương pháp lựa chọn nhân sự có vẻ thiên về cảm tính ấy là một đội ngũ nhân viên rất chất lượng và chuyên nghiệp. Ông tự hào cho biết: "Người của tôi rất có uy tín trên thị trường lao động Việt Nam". Tổng giám đốc Ngân hàng ANZ hiện nay đã từng là trợ lý của ông. Khoảng hơn 70 công ty làm dịch vụ tư vấn hiện nay có người đứng đầu là những người từng có thời gian công tác trong công ty ông. Và không ít các luật sư sau khi thôi làm ở công ty ông, họ được nhận công việc tại những công ty luật danh tiếng thế giới như Baker & McKenzie hay White & Case...

Ông tâm niệm: một CEO, một vị tướng - linh hồn trong sự phát triển của một tập đoàn - là người “phải biết rõ mình đang làm gì, mình có mục tiêu gì, mình thực hiện mục tiêu đó bằng gì, vào lúc nào, trên quy mô nào và bao giờ chấm dứt".

Ông nói: "Tôi luôn nghĩ rằng tôi không phải là một ông chủ. Tôi là tư lệnh của một dự án kinh tế. Tôi luôn trả lương cho cán bộ của mình rất cao. Vì cho rằng mình phải chia phần chiến lợi phẩm mình kiếm được cho các “binh sĩ”. Với quan niệm như thế, tôi là một CEO bền vững".

Phẩm hạnh - triết lý thành công


“Làm gì có doanh nhân, làm gì có nhà chính trị. Đó chỉ là những trạng thái khác nhau của cuộc đời… Và điều quán xuyến hợp lý những trạng thái khác nhau đó của cuộc đời là đạo đức”, người đàn ông có thói quen tự cười mình này nhìn nhận về cuộc sống.

Đối với ông, đạo đức, sự lương thiện hay phẩm hạnh, không chỉ là nền tảng của một cuộc sống tốt đẹp mà còn là bản lề của sự thành công: dù bạn có là một người bình thường, một nhân viên hay một doanh nhân.

"Nếu không bắt đầu từ sự lương thiện thì con người sẽ chẳng làm được gì. Phải biết yêu thương con người. Chẳng hạn tôi bắt đầu kinh doanh là vì yêu con tôi. Các quy luật tinh thần sẽ mách bảo bạn cần phải làm gì rồi các bạn sẽ tự tìm thấy sự thành đạt thích hợp cho mình”, ông tâm sự.

Cách đây hơn 20 chục năm, khi ấy ông vẫn là một cán bộ làm việc trong biên chế nhà nước, cô con gái đầu lòng của ông mắc bệnh hiểm nghèo. Bỏ nghiệp nghiên cứu, ông sang làm kỹ sư xây dựng với mong muốn duy nhất: có đủ tiền để chữa bệnh cho con. Năm 1985, ông mất cô bé vì không thể kiếm đủ 30.000 USD - phí tổn cần thiết cho một ca phẫu thuật thay tủy. Cảm giác bất lực của một người cha khi ấy đã thôi thúc ông tìm cách bảo vệ gia đình trước khi những điều tương tự có thể xảy ra. "Tôi nghĩ rằng cần phải lao động, cần phải sáng tạo, không thể trông đợi vào những kinh nghiệm mà mình đã có cho đến lúc ấy. Cho nên tôi tạo ra nghề này".

Lương thiện cũng là tiêu chuẩn đầu tiên của một nhân viên dưới quyền ông phải đạt được. Đối với một người coi "tâm hồn" - nguồn sức mạnh vô hình có thể làm nở mọi thứ - là "vốn liếng quý giá nhất của con người" như ông, thì thiếu lương thiện đồng nghĩa với việc tự loại mình ra khỏi sự phát triển.

Ông cho hay: "Tôi không khắt khe về chuyên môn, nhưng tôi cực kỳ khắt khe về sự lương thiện. Nếu một người nào đã trót không lương thiện thì không qua mặt tôi được. Tôi không bao giờ tiếp nhận người không lương thiện, nếu cấp dưới của tôi có nhầm lẫn thì tôi cũng tìm cách loại bỏ. Lương thiện là phẩm chất quan trọng nhất để tôi chọn hay không chọn một cán bộ. Nếu có một người được việc nhưng không lương thiện thì người đó cũng sẽ không phát triển, không đi xa được".

"Tôi không tự mãn rằng tôi có khả năng biết mọi thứ, nhưng trong những thứ tôi biết được thì đạo lý của sự đúng đắn là yếu tố khống chế toàn bộ hoạt động của tôi".

Thế nên, đừng nóng vội, "hãy kiên nhẫn giữ gìn phẩm hạnh của bản thân... để chờ đợi cuộc sống tốt hơn. Chúng ta đừng làm xấu xí mình vì các thúc bách của đời sống, để đến khi cuộc sống tốt hơn thì chúng ta lại trở thành kẻ ngoài rìa".

Đó là triết lý sống của ông. Trước giờ vẫn vậy và sau này vẫn thế.
Ngô Chuyên

Nguồn www.Lanhdao.net      

Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch InvestConsult Group: Tận nhân lực, tri thiên mệnh

Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch InvestConsult Group, thường được nhắc đến như người sáng lập ra công ty tư vấn đầu tiên ở Việt Nam. Có lẽ ông cũng là một trong không nhiều người mạnh dạn rời bỏ môi trường nhà nước từ trước Đổi mới. Ở tuổi 63, người đàn ông này vẫn rất tráng kiện, vẫn làm việc miệt mài.


* Đang ngồi ghế quyền chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải, đâu là lý do khiến ông rời bỏ môi trường nhà nước vào năm 1984 - thời điểm trước khi đất nước tiến hành đổi mới?

- Sai lầm lớn nhất của chúng ta là không có môi trường bên ngoài Nhà nước. Nói một cách chữ nghĩa là không có xã hội dân sự. Khi nào mà ánh sáng của Nhà nước phủ lên mọi ngõ ngách của đời sống thì xã hội không thể phát triển một cách bình thản được. Cần phải có những khu vực không có sự hiện diện của Nhà nước.

Nhà nước luôn luôn phải tự vấn rằng liệu sự có mặt của mình tại một khu vực nào đó, vào một thời điểm nào đó có cần thiết hay không. Nhận ra lúc mình không cần thiết là một biểu hiện của sự thông thái. Cũng giống như một người cha thấy con trai mình đang ôm bạn gái thì phải biết tránh đi.

Có thể nói, từ một nhà nghiên cứu khoa học cầu đường dân sự, rồi chuyển sang kinh doanh, là vì từ trong máu của mình, tôi là người không có khả năng chịu khổ nhưng cũng không có khả năng tham nhũng.

* Để tham nhũng được cũng cần phải có những điều kiện?


- Khi rời khỏi khu vực công, tôi là một quan chức tương đương cấp vụ. Nếu ở lại, tiếp tục phấn đấu thì có thể tôi cũng sẽ có điều kiện nào đó để làm quan chẳng hạn. Tôi nghĩ rằng khi làm quan chức, nếu không biết tận dụng lợi thế của mình thì sẽ rất nghèo, cho nên mới có thuật ngữ quan thanh liêm. Cũng bởi cái nghèo mà tôi đã mất con gái đầu lòng. Con gái tôi bị bệnh bạch cầu. Giá một ca phẫu thuật ở nước ngoài lúc đó khoảng 30 ngàn USD - một khoản tiền mà có nằm mơ tôi cũng không nghĩ đến. 

Tôi không cam chịu nghèo, nhưng cũng không muốn làm một vị quan không thanh liêm nên tôi phải tìm ra bên ngoài để làm kinh doanh. Nhưng với tư cách là một người đã từng làm khoa học, tôi không muốn làm kinh doanh thông thường như mua đi bán lại, mua đắt bán rẻ vì nó không phải là ưu thế mà tôi có, nên tôi kinh doanh các dịch vụ có chất lượng khoa học, đó là nghiên cứu về vấn đề chuyển giao công nghệ, cung cấp các dịch vụ luật sư đảm bảo chất lượng hợp lý cho các hành vi kinh doanh. Tất cả những dịch vụ ấy, trong một chừng mực nào đó đều đòi hỏi vốn hiểu biết và sự nghiên cứu.

Tôi đã bắt đầu nghiên cứu xây dựng loại hình công ty như thế từ năm 1984 và đến năm 1987 khi đất nước mở cửa, đổi mới thì tôi lập Công ty Investip, thuộc Bộ Khoa học Công nghệ. Tuy nhiên, vì muốn hoạt động tư nhân và muốn rành mạch trong quan hệ với Nhà nước nên năm 1991, tôi tách ra và thành lập InvestConsult Group.

* Năm 1987, chúng ta chưa có Luật Doanh nghiệp. Việc ông lập công ty phải chăng là một sự mạo hiểm?

- Trước khi mở công ty, tôi đã dành ra khoảng mười năm để nghiên cứu về nó. Việc mở công ty bây giờ là chuyện bình thường, nhưng vào thời điểm những năm 1980, công ty là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người Việt. Vào những năm ấy, những giáo trình về kinh tế học phi xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là rất hiếm, không được lưu hành phổ biến, công khai.

Ví dụ giáo trình Kinh tế học của giáo sư Paul Adam Samuelson, được cơ quan kinh tế của Bộ Ngoại giao dịch và chỉ được lưu hành trong một vài cơ quan và trường đại học có liên quan đến kinh tế. Các bạn biết rằng, truyền bá những kiến thức kinh tế học phi xã hội chủ nghĩa vào thời điểm ấy đòi hỏi phải có một sự dũng cảm ghê gớm và nó cũng vượt quá khả năng hiểu biết của người Việt vào thời điểm ấy.

* Dám tiếp cận những tài liệu đó cũng có thể được xem là một sự dũng cảm?

- Tôi chỉ là người điếc không sợ súng. Khi tôi mở công ty, cậu em tôi đang là trưởng phòng trong một công ty của Ban Tài chính Quản trị Thành ủy TP.HCM và đang phấn đấu để lên phó giám đốc. Tôi nói với cậu ấy rằng hãy từ bỏ vị trí đó, đi theo tôi. Cậu ấy hỏi: theo anh rồi làm gì? Tôi trả lời: làm gì thì chưa biết nhưng chắc chắn không chết được. Đến bây giờ thì cậu ấy cũng đã có một số thành tựu trong cuộc đời của cậu ấy và một tương lai tốt.

Để rủ được những người khác theo mình vào giai đoạn đầu tiên như vậy, buộc phải có nhân cách. Nhân cách không chỉ là một phẩm hạnh mà còn là vốn liếng của những người muốn có sự nghiệp. Những người nào muốn có sự nghiệp mà sự nghiệp ấy không bị tương lai đem ra chế giễu thì người đó buộc phải bắt đầu nó bằng nhân cách, bằng phẩm hạnh.

* Trong số những người đi theo ông từ những ngày đầu, đã có những người ra đi, chẳng hạn như trường hợp chị Đàm Bích Thủy, Tổng Giám đốc Ngân hàng ANZ Việt Nam. Ông có tiếc không?

- Chị Thủy có bay lên Sao Hỏa đâu. Sự thành đạt của các đồng nghiệp là những tấm huân chương gắn lên ngực áo nhà quản trị. Tôi có một may mắn là đến giờ này vẫn chưa có một quả thối nào rơi từ cành cây Nguyễn Trần Bạt. Chị Thủy tốt nghiệp Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, khoa Tiếng Anh và chị ấy hoàn thiện chương trình đại học của mình theo chế độ học thêm tại chức.

Ngành học của chị ấy không hề liên quan gì đến tài chính, không hề liên quan gì đến luật pháp, không hề liên quan gì đến kinh doanh cả nhưng bây giờ chị ấy là người đứng đầu một tổ chức kinh doanh, một loại hình kinh doanh khó nhất trong các ngành kinh doanh là kinh doanh ngân hàng. Tôi không tạo ra khả năng của chị Thủy nhưng tôi khích lệ khả năng ấy. Tôi không dạy chị ấy được một chút kiến thức nào về chuyện ấy nhưng tôi thổi vào đời sống tinh thần của chị ấy cái khát vọng trở thành một người như thế và tôi tự hào về điều đó.

* Trong cuốn sách Văn hóa và Con người, ông có nói rằng “mỗi thế hệ phải làm cho thế hệ sau tốt hơn”. Khoảng cách giữa nói và làm cách nhau bao xa, thưa ông?

- Tôi không nói to chuyện ấy ra một cách chủ động, nhưng khi tôi viết sách là khi tôi trả lời các câu hỏi của cuộc đời thì tôi nói. Tôi nghĩ rằng, tôi luôn luôn cố gắng làm đến mức cao nhất khả năng của mình những điều mình nói. Có những vấn đề tôi làm hơn những điều tôi nói, có những vấn đề tôi chưa làm được đến điều tôi nói nhưng tôi cố gắng làm.

Tôi có một đồng nghiệp là em trai của một người bạn tôi. Cậu ấy học ở nước ngoài về nhưng vì chưa kiếm được việc làm nên người bạn mang đến gửi gắm cho tôi. Sau này, khi đã trở thành một người giàu có, cậu ấy mới nói với tôi rằng lúc đầu em đi theo anh chỉ vì mong muốn mua được một căn hộ để lấy vợ. Bây giờ thì cậu ấy có năm cái villa ở Sài Gòn. Tức là tôi làm được nhiều hơn cái mà người ta kỳ vọng ở tôi và cái mà tôi muốn.

Tất nhiên tôi không phải là kẻ từ thiện, tôi chỉ hướng dẫn, cổ vũ, tập hợp để người ta làm thôi, còn những thành quả ấy vẫn là lao động của người ta. Tôi không chiếm dụng giá trị tinh thần lao động của người khác để nói cho mình, nhưng phải nói rằng những người tài hoa trong số họ đã đạt được những cái thậm chí lớn hơn cái động cơ ban đầu của họ khi họ hợp tác với tôi.

* Và ông cũng giàu có hơn?

- Đương nhiên. Cái khó với tôi không phải là giàu có, mà là giữ được những giá trị của mình ngay cả khi đã trở nên giàu có. Tôi có thừa trí khôn để có thể kiếm được rất nhiều tiền từ thị trường chứng khoán, nhưng tôi không tham gia. Từ những năm 1989 tôi đã tổ chức hội thảo bàn về thị trường chứng khoán tại Sài Gòn. Lúc đó tôi bị ông Võ Văn Kiệt khiển trách. Có những người tỏ ra khó chịu về chuyện đó, xúi tôi làm chuyện nọ chuyện kia, nhưng tôi chỉ cười và nói: Ở đời, có mấy người được vua nện cho một gậy. Hơn thế, đó lại là vị vua mà mình yêu mến.

* Đó là một phép thắng lợi tinh thần?

- Tôi là người không bao giờ để bụng. Không tự giam hãm mình vào sự thù hận là nguyên tắc số một của tôi. Lòng căm thù có thể là vũ khí tạo ra chiến thắng, nhưng không tạo ra hạnh phúc.

* Vậy thì, với ông, cái gì tạo ra hạnh phúc?

- Tự do. Tự do với lịch sử của mình, với định kiến của mình, luôn luôn có những năng lực tự giải phóng mình ra khỏi những trạng thái mà ở đó mình không còn nguyên vẹn là một con người nhân hậu. Tự do với bản thân mình khó hơn nhiều.

* Ngoài việc điều hành kinh doanh, ông còn viết sách. Ông có nghĩ sách của mình khó bán?


- Tôi không viết sách để kiếm tiền. Tôi muốn đóng góp kinh nghiệm của mình với đời sống, con người và đất nước. Ai nhặt được điều gì đó có ích trong những cuốn sách của tôi là quyền của họ. Viết lách là niềm ham thích của tôi, nó là lao động chủ yếu của tôi khi bắt đầu bước sang tuổi 55, sau khi hoàn tất việc cấu trúc công ty. Cho đến năm 2008, tôi đã viết được 8.500 trang. Tôi làm việc cật lực như một người xúc than. 

* Từ kỹ sư cầu đường, chuyển qua kinh doanh, rồi viết sách. Viết lách có phải là cột mốc cuối cùng trong cuộc đời của ông?

- Công việc sắp tới của tôi là thuyết phục các nhà lãnh đạo về những vấn đề sống còn của đất nước. Tôi không phải là người đối lập, nhưng đem những ý kiến của mình thuyết phục người khác thì tôi làm không mệt mỏi.

* Ông có tin rằng mình làm được?

- Tôi chưa bao giờ làm những gì mà mình không tin. Người ta phải có lòng tin vào sự lương thiện của mục đích công việc của mình. Không tin vào chất lượng thiện chí của mình thì sống với ai?

* Được biết ông đã có nhiều buổi nói chuyện với sinh viên đại học. Tiếp xúc với đối tượng này, ông suy nghĩ như thế nào về họ?

- Tôi nghĩ cần thực hiện một hoạt động có tính chất quy mô xã hội để giải độc hệ quả của một nền giáo dục mà chúng ta đã có. Tôi cũng là một người cha. Tôi nghĩ cần phải làm thế nào đó để thế hệ trẻ, thế hệ con tôi bước vào cuộc đời với tư cách những người tự do, những người không nhiễm độc, không định kiến, những người có tầm nhìn hình nan quạt chứ không phải cái nhìn trên một đường thẳng. Hiện nay ngành giáo dục đang dạy trẻ con sai. Con cháu chúng ta thi rất giỏi, nhưng làm thì rất kém. Có những người làm rất giỏi nhưng sống thì tồi. Xét cho cùng, mục tiêu của con người là sống chứ không phải làm việc.

* Trong thời gian chờ đợi việc “giải độc cho thế hệ trẻ”, như cách nói của ông, là động cơ khiến ông đưa con trai của mình “di tản giáo dục”?

- Tôi gửi con trai ra nước ngoài du học vì đó là một cơ hội. Bây giờ tôi còn khỏe mạnh, còn kiếm được tiền để lo cho con tôi. Chứ tôi không nghĩ đi du học nước ngoài thì sẽ tốt hơn. Cuộc sống cũng là một trường học.

* Có vẻ như cuộc sống dạy cho ông nhiều hơn giảng đường?

- Không. Trút lên vai giảng đường trách nhiệm phải dạy tất cả những gì cuộc sống cần là sự áp đặt ngốc nghếch. Trường học không có nghĩa vụ dạy cho học trò tất cả mọi thứ. Trường học chỉ là nơi hướng dẫn phương pháp, cung cấp cho các em kiến thức để có thể hành nghề trong giai đoạn đầu vào đời. Chính vì hy vọng trường học là nơi cung cấp mọi thứ mà cuộc sống cần nên người ta mới nhồi nhét.

Tôi nghĩ những người nào đến 40 tuổi mà vẫn sống bằng kiến thức ở trong trường học thì không có giá trị phát triển. Sự học được ở ngoài đời nhiều hơn ở trường học là một nguyên lý chứ không phải là một thực tế. Tôi biết có rất nhiều người vẫn không ra khỏi được chương trình giáo khoa trong quá khứ. Trong buổi nói chuyện với sinh viên Trường đại học Kinh tế Quốc dân, tôi có nói một câu như thế này: “Trở thành nô lệ tuyệt đối cho những điều mình học thì học tập là một quá trình tự tàn sát mình”. Nhà trường phải dạy trẻ em cách ra khỏi sách giáo khoa.

Thời gian còn làm việc ở Bộ Khoa học Công nghệ, tôi được giao nhiệm vụ phụ trách một công trình xây dựng. Do có một cải tiến buộc phải tranh luận trong thời gian thi công, người ta mời một người thầy đã từng dạy tôi 20 năm về trước đến thẩm định. Khi tôi bảo vệ ý kiến của mình, ông ấy nói: “Anh Bạt, hình như anh là học trò của tôi?”. Tôi trả lời: “Thưa anh, đúng. Tôi đã từng là học trò của anh. Những người dạy học trò mà hai mươi năm sau vẫn nghĩ rằng mình là thầy của những người học trò ấy thì đấy là những người thầy tồi”.

Hạnh phúc của những người thầy là có những người học trò mà mình có thể ngưỡng mộ được. Không có một người nào lại tự hào rằng mình cao hơn cái cây mình trồng. Cái cây phải cao hơn người trồng và sự chênh lệch về chiều cao này càng lớn thì người trồng càng hạnh phúc. Chúng ta có ít những người thầy tự hào về điều ấy và đó chính là nỗi bất hạnh của nền giáo dục chúng ta.

* Ông có đi dạy không?

- Tôi không đi dạy một cách chính thức. Hồi ở viện, tôi có tham gia một số chương trình đào tạo của những trường đại học có ngành liên quan, hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp… nói chung là cũng có chút liên quan với việc dạy.

* Vậy ông đã có học trò nào mà mình ngưỡng mộ chưa?

- Tôi rất thận trọng khi xếp mình vào vị trí của người thầy. Để làm thầy, con người ta phải có một sự cố gắng vô cùng lớn lao. Tôi không may mắn có học trò. Tôi không nhận ai là học trò của tôi cả.

* Đó là một cách nói?

- Không phải. Đó là một cách nghĩ. Tôi cho rằng người thầy là người tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ của người học trò. Nếu chỉ dạy những điều trong sách giáo khoa, trong những quyển sách mình đã đọc thì chưa phải là thầy. Tại sao ở phương Tây, phần lớn các viện nghiên cứu đều nằm trong các trường đại học? Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người đi dạy. Qua nghiên cứu người thầy mới tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ của mình và từ đó mới có khả năng tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ học trò của mình.

Một bài giảng năm nay cũng giống như năm ngoái nghĩa là không tạo ra giá trị gia tăng, và như thế là rao giảng chứ không phải đi dạy. Tôi không dám nghĩ mình là thầy của bất kỳ ai. Tôi chỉ là đồng nghiệp của những người yêu khoa học.

* Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này.

Theo THƯỢNG TÙNG
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

Đăng ký bất động sản và vấn đề minh bạch hóa thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản

Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đăng ký bất động sản ở nước ta chính là phải xác định được đúng bản chất của hoạt động đăng ký bất động sản để có phương pháp điều chỉnh phù hợp, đồng thời cần phải đánh giá được tính minh bạch của thông tin về bất động sản để từ đó đề xuất các giải pháp giúp thị trường bất động sản vận hành an toàn, công khai.

1. Bản chất của đăng ký bất động sản

1.1. Bản chất của đăng ký quyền sử dụng đất


Một trong các vấn đề hiện còn có nhiều ý kiến tranh luận giữa các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạch định chính sách là bản chất của đăng ký quyền sử dụng đất. Theo đó, (i) loại quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền năng của người sử dụng đất có từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận), (ii) loại quan điểm thứ hai cho rằng, quyền năng của người sử dụng đất có từ thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định giao đất, cho thuê đất và người sử dụng đất đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật đất đai.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người sử dụng đất chỉ được thực hiện các quyền năng sau khi đã được Nhà nước công nhận thông qua hoạt động cấp Giấy chứng nhận, đồng thời các giao dịch về quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực pháp lý sau khi có sự đồng ý (chấp thuận) của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thông qua việc chỉnh lý hồ sơ địa chính. Do vậy, đăng ký quyền sử dụng đất được hiểu là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Người sử dụng đất để được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì bắt buộc phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đất đai tuy thuộc sở hữu toàn dân và quyền sử dụng đất của người dân là quyền “phái sinh”, nhưng để có thể hiểu rõ bản chất của đăng ký quyền sử dụng đất, chúng ta cần gắn hoạt động đăng ký với từng loại thị trường quyền sử dụng đất (thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp). Theo đó, đối với thị trường sơ cấp (quan hệ giữa Nhà nước với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất) thì việc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức một văn bản hành chính đã làm “phát sinh” quyền của người sử dụng đất và người sử dụng đất nếu có nhu cầu thực hiện các giao dịch (ví dụ: chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp...) thì tiến hành đăng ký để quyền sử dụng đất có đủ điều kiện tham gia thị trường thứ cấp. Đối với thị trường thứ cấp (quan hệ giữa tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với nhau) thì quyền sử dụng đất chuyển cho bên nhận chuyển quyền từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, còn việc đăng ký biến động về sử dụng đất (chỉnh lý biến động) chỉ nhằm ghi nhận việc chuyển quyền sử dụng đất giữa các tổ chức, cá nhân với nhau và giúp công khai hoá quyền của bên nhận chuyển quyền sử dụng đất với người thứ ba.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, chính những quy định chưa hợp lý về giá trị pháp lý của hoạt động đăng ký các giao dịch về bất động sản (xuất phát từ sự nhìn nhận chưa khách quan về bản chất của hành vi đăng ký bất động sản) là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất ổn trong các giao dịch dân sự. Nhiều hợp đồng, giao dịch về bất động sản bị Tòa án có thẩm quyền tuyên vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức, trong khi tại thời điểm ký kết hợp đồng, giao dịch, các bên chủ thể hoàn toàn tự nguyện về ý chí và giao dịch có nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

1.2. Bản chất của đăng ký quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất

Xét về lý luận, quan hệ sở hữu là trung tâm, quyết định các chính sách liên quan đến tài sản. Do vậy, nếu đã khẳng định “chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”[1] thì Nhà nước cần có quan điểm, cách thức điều chỉnh việc đăng ký quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất một cách phù hợp.

Theo quy định hiện hành, có 4 loại tài sản gắn liền với đất được đăng ký sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là: (i) nhà ở, (ii) công trình kiến trúc khác, (iii) quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng và (iv) vườn cây lâu năm. Theo pháp luật hiện hành thì chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất kê khai thông tin về tình trạng pháp lý và hiện trạng vật lý của tài sản, sau đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận thông tin đó trên Giấy chứng nhận và hồ sơ địa chính. Tuy nhiên, nếu không được ghi nhận sở hữu trên Giấy chứng nhận thì chủ sở hữu nhà ở không có đủ điều kiện để xác lập, thực hiện các giao dịch về nhà ở[2]. Điều này cho thấy sự thiếu thống nhất giữa điều kiện xác lập, thực hiện giao dịch với nguyên tắc đăng ký “theo yêu cầu” (tự nguyện) đã được khẳng định trong Luật Nhà ở và các văn bản có liên quan. Trong khi đó, khi có một trong các căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu hợp pháp thì chủ sở hữu đương nhiên có quyền định đoạt tài sản của mình. Do vậy, những quy định về thủ tục đăng ký cần phải hướng đến mục tiêu khuyến khích chủ sở hữu thực hiện việc đăng ký, công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản gắn liền với đất, qua đó tạo môi trường thuận lợi, minh bạch để các giao dịch được xác lập, thực hiện.

Theo chúng tôi, đăng ký quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực chất là việc Nhà nước ghi nhận quyền sở hữu và các giao dịch đã được các tổ chức, cá nhân xác lập hợp pháp. Nói cách khác, đăng ký quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất không phải là điều kiện làm phát sinh quyền tài sản, mà đó chính là cách thức để công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản (bao gồm cả quyền sở hữu). Sự ghi nhận của Nhà nước được thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu, không mang tính bắt buộc và không phải là điều kiện để giao dịch có hiệu lực.

Suy cho cùng thì đăng ký quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được xây dựng dựa trên “nguyên lý” chung là: (i) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản; (ii) minh bạch hoá tình trạng pháp lý của bất động sản; (iii) đảm bảo cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, an toàn và công khai; (iv) tăng cường khả năng tham gia thị trường của bất động sản và (v) là cơ chế hữu hiệu để Nhà nước quản lý thị trường bất động.

2. Nhận xét khái quát về thủ tục đăng ký bất động sản và mức độ công khai hoá tình trạng pháp lý của bất động sản

2.1. Nhận xét khái quát về thủ tục đăng ký bất động sản


a) Việc đăng ký bất động sản có xu hướng bị hành chính hoá, trong khi việc xác lập các quyền, lợi ích hợp pháp đối với bất động sản là quyền dân sự. Với các quy định hiện hành, quyền dân sự của người dân đã bị phụ thuộc vào ý chí nhà nước (thông qua các cơ quan đăng ký) nhiều hơn là các căn cứ luật định. Điều này không chỉ dẫn đến hệ quả thủ tục đăng ký kéo dài, phức tạp mà còn là nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo báo cáo “Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt Nam” của Đại sứ quán Đan Mạch, Thụy Điển và Ngân hàng Thế giới công bố thì tham nhũng trong việc cấp giấy chứng nhận khá phổ biến. Bởi lẽ, quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phức tạp, mất nhiều thời gian đã kích thích người dân sẵn lòng chi thêm tiền cho cán bộ để lấy được giấy chứng nhận nhanh hơn.

b) Do bản chất của đăng ký bất động sản chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng nên các quy định về thủ tục đăng ký và vấn đề xác lập, công nhận các quyền liên quan đến bất động sản chưa phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Mặt khác, do pháp luật hiện hành chú trọng trước tiên và chủ yếu đến yếu tố quản lý hành chính về bất động sản (ví dụ: giao dịch về quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký hay như chủ sở hữu nhà ở chỉ được thực hiện các giao dịch sau khi được cấp Giấy chứng nhận nên đã hạn chế “khả năng” tham gia các giao dịch của bất động sản trên thị trường, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản và sự phát triển của nền kinh tế[3].

c) Tạo sự chồng chéo, xung đột khi áp dụng các quy định của pháp luật, ví dụ như: Theo quy định tại khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở thì “quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng…” nhưng theo pháp luật đất đai thì “hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại… quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất” (khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP).

d) Các quy định về thủ tục đăng ký chưa tạo được hành lang pháp lý để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển theo hướng minh bạch, an toàn. Do vậy, để cải cách thành công hệ thống pháp luật về đăng ký bất động sản thì điều kiện quan trọng hàng đầu là phải thay đổi khi phân tích, đánh giá bản chất của đăng ký bất động sản. Nếu vẫn tiếp tục quy trì cơ chế “xin - cho” trong đăng ký bất động sản, thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng người dân không “mặn mà” với hệ thống đăng ký và hệ quả là mục tiêu “công khai, minh bạch” của thị trường bất động sản sẽ không thể đạt được trên thực tế.

2.2. Mức độ công khai hoá tình trạng pháp lý của bất động sản

Với cơ chế vận hành như hiện nay, hệ thống đăng ký bất động sản của nước ta không đáp ứng được yêu cầu của thị trường bất động sản về mức độ và khả năng công khai hoá tình trạng pháp lý của bất động sản. Thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam có mức độ minh bạch vào loại thấp nhất thế giới. Chỉ số minh bạch không chỉ đơn thuần phản ánh mức độ tham nhũng, mà còn đề cập đến các vấn đề khác như: thông tin thị trường, hệ thống pháp lý, hiêu lực thực tế của các quy định có liên quan đến các giao dịch BĐS, các tiêu chuẩn và đạo đức hành nghề của các nhà tư vấn, môi giới BĐS… Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì Việt Nam hiện có nhiều vướng mắc trong các quy định về quyền sở hữu, thiếu thông tin thị trường và thiếu các quy định về việc công khai thông tin. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do:

a) Hệ thống đăng ký bất động sản ở nước ta hiện tập trung chủ yếu cho mục tiêu quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực này, chưa trú trọng đến yếu tố công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý để phục vụ thị trường. Do vậy, để hướng đến một thị trường bất động sản có tính minh bạch cao, thì yếu tố tâm lý - pháp lý này cần nhanh chóng thay đổi trong tư duy lập pháp ở nước ta[4].

b) Hệ thống thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ do không được cập nhật thường xuyên, liên tục và không được lưu giữ đầy đủ qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, ví dụ như: theo quy định hiện hành, thì khi người sử dụng đất thực hiện các giao dịch, cơ quan có thẩm quyền phải đồng thời chỉnh lý hồ sơ địa chính được lưu tại 3 cấp hành chính (tỉnh, huyện và xã), nhưng trên thực tế quy định này gần như không thực hiện được hoặc tại các địa phương, thông tin về bất động sản chủ yếu được lưu giữ chủ yếu dưới dạng bản giấy, chưa được vi tính hoá, nối mạng.

c) Việc tổ chức đăng ký bất động sản và quản lý thông tin về bất động sản phân tán, dẫn đến những khó khăn, tốn kém (về thời gian và kinh phí) cho việc thực hiện đăng ký bất động sản, cũng như lưu giữ, tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản. Điều này gây bất lợi cho việc xây dựng một thị trường bất động sản hoạt động lành mạnh, đúng pháp luật và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân.

d) Nhà nước vẫn chưa tạo được cơ chế để khuyến khích người dân và các nhà đầu tư có “thói quen” tìm hiểu thông tin về bất động sản một cách “chính thức”. Trong khi đó, có một thực tế là: tuy thị trường bất động sản “đói” thông tin nhưng một bộ phận các nhà đầu tư vẫn có được những thông tin “phi chính thức”. Trong khi đó, pháp luật chưa quy định giá trị pháp lý của thông tin về bất động sản được cung cấp bởi cơ quan có thẩm quyền. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước, chúng tôi nhận thấy, nếu khẳng định “giá trị chứng cứ” của thông tin do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp, thì tỷ lệ tìm hiểu và mức độ chính xác của thông tin về bất động sản sẽ tăng trên thực tế.

3. Giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo cho các quyền về bất động sản được xác lập nhanh chóng, thuận tiện và đảm bảo yếu tố minh bạch

3.1. Cần xác định rõ tính chất của từng loại quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền liên quan đến bất động sản, để từ đó lựa chọn cách thức, biện pháp tác động phù hợp, cụ thể là: (i) pháp luật đất đai chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; (ii) pháp luật về nhà ở chỉ điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân trong việc thực thi chính sách phát triển, quản lý việc sử dụng về nhà ở; (iii) pháp luật về đăng ký bất động sản điều chỉnh về trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và các giao dịch liên quan đến bất động sản… Nếu không giải quyết rõ ràng về vấn đề nêu trên thì sẽ dẫn đến những mâu thuẫn, chống chéo và sự bất hợp lý trong quá trình thực thi, vì “nếu pháp luật xa rời đời sống thì pháp luật sẽ “chết trên giấy”, nó không thể trở thành thói quen ứng xử được số đông dân chúng chấp nhận”[5].

3.2. Đối với đất đai, Nhà nước cần nghiên cứu để có cơ chế bảo vệ quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân dưới góc độ quyền tài sản. Theo đó, bằng các biện pháp dân sự, Nhà nước phải cung cấp các dịch vụ nhằm tạo thuận lợi cho người dân được xác lập, thực hiện và đăng ký để được bảo vệ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu hợp pháp bất động sản. Theo chúng tôi, nếu giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất thì sẽ loại bỏ được những bật cập trong việc thực thi chính sách, pháp luật đất đai ở nước ta.

3.3. Cần hiểu rõ bản chất của đăng ký bất động sản không phải là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền sở hữu và các quyền liên quan đến bất động sản (thế chấp, góp vốn, thừa kế…) vì trong mối quan hệ giữa Nhà nước (chủ sở hữu đất đai) với tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì đăng ký bất động sản là sự kiện pháp lý nhằm ghi nhận, công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản.

3.4. Rà soát các quy định pháp luật hiện hành để bãi bỏ những thủ tục rườm rà, thiếu thống nhất, gây khó khăn cho người dân khi tiếp cận với hệ thống đăng ký. Việc đăng ký bất động sản được thực hiện một cách hiệu quả sẽ góp phần bảo vệ quyền sở hữu tài sản cho người dân vì chính tính phức tạp của hệ thống đăng ký sẽ gây ra sự không chắc chắn, làm tăng chi phí giao dịch và tạo cơ hội gian lận[6].

3.5. Đơn giản hoá hệ thống thuế và lệ phí đăng ký bất động sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì các bên phải nộp thuế chuyển quyền và lệ phí trước bạ khi đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu bất động sản. Tuy nhiên, do mức thuế và lệ phí trước bạ cao, cộng thêm với giá đất cao nên người mua không “mặn mà” với thủ tục đăng ký để “sang tên đổi chủ”. Chi phí giao dịch cao đã “khuyến khích” giao dịch phi chính thức và sự nhũng nhiễu từ phía cơ quan công quyền. Để khắc phục tình trạng này, đã có 31 nước thực hiện gộp tất cả các loại phí thành một khoản thanh toán và giảm thiểu hợp lý các khoản phải nộp liên quan đến đăng ký bất động sản[7]. Giải pháp này sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy chủ sở hữu bất động sản thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật.

3.6. Hạn chế sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền trong quá trình người dân thực hiện các quyền dân sự, trong đó bao gồm cả quyền sở hữu hợp pháp bất động sản. Muốn thực hiện được yêu cầu này, thì pháp luật phải rõ ràng, minh bạch với nguyên tắc xuyên suốt là “đăng ký bất động sản là quyền của người dân và là nghĩa vụ của các cơ quan công quyền”. Sự minh bạch về pháp luật sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện các thủ tục đăng ký bất động sản.

3.7. Khẳng định mục tiêu minh bạch hoá thông tin về bất động sản. Theo đó, việc cung cấp thông tin về bất động sản khi người dân xác lập, thực hiện các giao dịch trên thị trường là một yếu tố quan trọng, tiên quyết mà hệ thống đăng ký bất động sản hướng đến và việc cung cấp thông tin về bất động sản được nhìn nhận như một hoạt động của dịch vụ công vì hiệu quả của hệ thống đăng ký bất động sản được đánh giá thông qua khả năng đảm bảo sự vận hành an toàn, minh bạch của thị trường bất động sản.

Nghiên cứu bản chất của đăng ký bất động sản và vấn đề minh bạch hoá thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống đăng ký bất động sản và thúc đẩy sự vận hành minh bạch của thị trường bất động sản ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Hồ Quang Huy

[1] Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2005

[2] Điều 91 Luật Nhà ở năm 2005

[3] Nếu A ký kết hợp đồng mua căn hộ chung cư của B thì sẽ phát sinh những chi phí giao dịch. Chi phí càng cao thì cơ hội diễn ra giao dịch càng giảm và hệ quả là thị trường ít sôi động, kinh tế kém phát triển. Ngược lại, chi phí giao dịch giảm thì cơ hội giao dịch gia tăng, khi đó mua bán trở nên nhộn nhip, kinh tế từ đó mà tăng trưởng.

[4] Tại một cuộc Tập huấn do Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm tổ chức, đại biểu công tác tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh khẳng định thông tin về bất động sản (đặc biệt là quyền sử dụng đất) phải được lưu giữ bí mật như thông tin về đời tư của một cá nhân, không thể cung cấp cho người khác.

[5] Phạm Duy Nghĩa: Chuyên khảo Luật Kinh tế; NXB Đại học quốc gia, Hà Nội năm 2004.

[6] Ấn phẩm “Môi trường kinh doanh năm 2006” do Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài chính Quốc tế đồng xuất bản.

[7] Ví dụ: Tháng 7 năm 2004, chính quyền bang Maharashtra (Ấn Độ) đã giảm thuế trước bạ từ 10% xuống còn 5% và kết quả là tổng thu từ khoản thuế tăng lên 20%, trong đó 80% là từ các giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Đặc biệt hiện nay, hoạt động đăng ký bất động sản chính thức diễn ra nhiều hơn và các cơ quan đăng ký cũng cung cấp thông tin đầy đủ hơn về giá trị của bất động sản (Theo Ấn phẩm “Môi trường kinh doanh năm 2006” do Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài chính Quốc tế đồng xuất bản).



soure: moj.gov.vn