Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

CÁC NGUỒN LỰC TƯ NHÂN BÊN NGOÀI ĐỂ THU LỢI NHUẬN TỪ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA VÀ KHOẢN NỢ BÊN NGOÀI


Matthew Odedokun
Phiên Dịch: Lê Thu

Các Nguồn Lực Chính Thức


*Song Phương- i.e., từ chính phủ của nước tài trợ trực tiếp cho nước nhận tài trợ
-Các cam kết tài chính
-Các nguồn vay dễ dàng hoặc giảm (ODA)
-Các nguồn vốn vay không được giảm
-Sự hỗ trợ về kỹ thuật
-Trợ giúp về lương thực
*Nguồn Đa Phương -- chủ yếu từ các tổ chức của Liên Hợp Quốc (như UNDP, UNICEF), IMF, Ngân Hàng Thế Giới và các ngân hàng phát triển khu vực tới các nước nhận:
-Các nguồn trợ cấp (chủ yếu là từ các tổ chức của UN mặc dù Ngân Hàng Thế Giới cũng trợ cấp một phần)
-Các nguồn vay dễ dàng hoặc được giảm (ODA) (nhưng không phải các tổ chức của UN)
-Các nguồn vay không được giảm (ODA) (nhưng không phải các tổ chức của UN)
-Sự hỗ trợ về kỹ thuật
Các Nguồn Lực Tư Nhân
*Vốn vay:
-Từ ngân hàng thương mại (chỉ đối với các khoản tín dụng, những nước giàu)
-Đầu tư theo hợp đồng (chỉ đối với các khoản tín dụng, những nước giàu)
*Đầu tư theo hình thức bán cổ phiếu:
-Đầu tư bằng cách bán cổ phiếu cho các doanh nghiệp
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) -- chủ yếu đối với các nước giàu và các nguồn khoáng sản ở những nước nghèo.
*Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO)- trong phạm vi luân chuyển các khoản lợi nhuận, như Hội Chữ Thập Đỏ, Oxfam, Mặt Trận Medicine
*Các khoản trợ cấp tài chính
Đồng loại - thông qua việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI[1])

*FDI là gì? Đó là khoản đầu tư từ nước ngoài vào một doanh nghiệp trong nước, nhà đầu tư nắm giữ một phần nhất định trong doanh nghiệp. Nếu không có yếu tố kiểm soát hiện tại, nó sẽ trở thành việc đầu tư theo hình thức cổ phiếu. Trong những năm gần đây, FDI chiếm phần quan trọng trong nguồn vốn tư nhân chảy vào những nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có mức thu nhập ở mức trung bình và cao.
*Lợi Nhuận Từ FDI Của Nước Nhận Được:
-Giảm bớt hoặc xoá bỏ tính không thống nhất về khoảng cách giữa đầu tư và trao đổi ngoại hối, như trong trường hợp của bất cứ dòng chảy vốn nào và qua đó, thúc đẩy kinh tế phát triển.
-Thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước, không giống như các hình thức vốn khác
-Mang đến kỹ thuật hoặc phương pháp nước ngoài
-Cung cấp việc làm cho người dân các nước nhận vốn
-Cung cấp cả sự liên kết lạc hậu và tiên tiến (bằng cách cung cấp vốn) tới các doanh nghiệp của nước nhận vốn.
*Những Bất Lợi Về FDI Đối Với Các Nước Nhận Vốn: (xem phần tính bất lợi của các công ty đa quốc gia dưới đây)

Các Công Ty Đa Quốc Gia (MNC's)[2]

*Các Công Ty Đa Quốc Gia Là Gì: Đây là một doanh nghiệp lớn có công ty mẹ ở một nước và các công ty con ở nhiều nước. Công ty mẹ khi đó là chủ đầu tư trực tiếp trong khi các công ty con hoặc các chi nhánh ở các nước khác là những nơi được đầu tư trực tiếp của nó ở nước ngoài -- tức là các công ty con của công ty đa quốc gia là một dạng đạc biệt của FDI.[3]
*Lợi Nhuận Của Các Công Ty Đa Quốc Gia Đối Với Các Nước Nhận Đầu Tư : (như trường hợp FDI ở trên)
*Những Bất Lợi Của Các Công Ty Đa Quốc Gia Đối Với Các Nước Được Đầu Tư:
-Giới hạn việc chuyển giao giấy phép, các bí mật công nghiệp và công nghệ đối với công ty con, được xem như một đối thủ tiềm năng.
-Cản trở các doanh nghiệp địa phương và hạn chế các ngành công nghiệp non trẻ trong nước mà được xem là những đối thủ tiềm năng.
-Giới thiệu những sản phẩm, những mô hình kỹ thuật và tiêu thụ không phù hợp
-Báo cáo giảm bớt các khoản thuế bằng cách khai tăng các chi phí đầu tư, trang thiết bị được phân loại theo nhóm, và các loại hàng hoá giá rẻ trong nhóm
-Trả lại một lượng quỹ lớn -- lợi nhuận, tiền thuê địa điểm, các loại chi phí quản lý và dịch vụ -- góp phần làm cân đối các chỉ số thanh toán trong những năm sau dòng chảy vốn đầu tiên.
-Thích tuyển dụng những người nước ngoài
-Ảnh hưởng lên chính sách của chính phủ về hướng không có ưu tốt đẹp -- chẳng hạn như: phòng vệ quá mức, sự giảm thuế, tiền trợ cấp, cơ sở hạ tầng, và việc cung cấp mặt bằng cho nhà máy
-Tăng sự can thiệp của nước ngoài vào các quá trình chính trị trong nước và cũng can dự vào các nhà chính trị địa phương.
-Có khuynh hướng ngăn chặn các ngành (như sản xuất) mà có lợi nhuận cao nhất đối với nước được nhận vốn và cả những nước có thu nhập thấp.

Các Vấn Đề Nợ Nước Ngoài

*Khoản nợ nước ngoài thuộc về khoản tích luỹ của tất cả các khoản vay bên ngoài (từ các nguồn song và đa phương chính thức, các ngân hàng thương mại nước ngoài, thông qua trái phiếu, tín dụng…
*Các chỉ số nợ bên ngoài bao gồm:
-Tỷ lệ nợ bên ngoài/ GDP, nói về số năm về tổng sản lượng của một đất nước do khoản vay đại diện.
-Tỷ lệ nợ/xuất khẩu, nói đến số năm của lượng xuất khẩu của một đất nước phải cam kết trả nợ.
-Tỷ lệ nợ về dịch vụ/ xuất khẩu, nói đến tỷ lệ xuất khẩu của một đất nước được dùng trong các ngành dịch vụ (i.e., trả lãi suất và khoản thanh toán định kỳ)
*Mỗi khoản nợ ở trên nói đến một khoản nợ nước ngoài rất nặng đối với các nước đang phát triển. Nguyên nhân bao gồm:
-Các chính sách kinh tế trong nước phù hợp không phù hợp, bao gồm các chỉ số tài chính qua các năm.
-Các điều kiện mậu dịch[4] ngày càng giảm đi
-Không có khả năng trả lãi cho các khoản nợ cũ, vì thế tiền lời bổ sung thêm vào các khoản nợ hiện tại
*Những ảnh hưởng chính của các khoản nợ nước ngoài:
-Không có khả năng trang trải cho các dịch vụ xã hội như giáo dục và sức khoẻ.
-Nghèo đói
-Những cuộc nổi dậy và bất ổn về chính trị
-Tín dụng giảm tại các thị trường tài chính quốc tế

Vài chiến lược lựa chọn làm giảm nợ nước ngoài:

*Sắp xếp lại thời gian -- ví dụ, hoãn thanh toán cho tới các giai đoạn thuận lợi trong tương lai.
*Mua lại nợ phải trả ở mức thấp hơn giá trị tiền mặt, chẳng hạn, trả 100 triệu đô-la nợ chỉ với 20 triệu để xoá đi toàn bộ khoản nợ.
*Từ chối -- không thanh toán hoặc không trả nợ. Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến hình thức phối hợp với nhau của các chủ nợ theo kiểu Câu Lạc Bộ Paris (dành cho các chủ nợ nhà nước) và Câu Lạc Bộ Luân Đôn (dành cho các chủ nợ tư nhân) và do đó sự lựa chọn này ít được áp dụng trong vòng vài thập kỷ qua.
*Trao đổi nợ -- trao đổi các khoản nợ để lấy cái gì đó mà những người cho vay chấp nhận được:
+Trao đổi các khoản nợ -- Trao đổi các khoản nợ nước ngoài ở các doanh nghiệp trong nước để các chủ nợ nước ngoài trở thành những nhà đầu tư thông qua tài sản
+Trao đổi các khoản nợ với môi trường thiên nhiên: các khoản nợ này có thể được xoá bỏ nếu nước được vay dành tiền cho các dự án môi trường mà được ưu tiên đối với các nhóm lợi nhuận về môi trường nước ngoài, những người mà khi đó sẽ sắp xếp với các chủ nợ nước ngoài để trả nợ theo định kỳ cả hai bên cùng chấp thuận (thường là được giảm).
+Sự chuyển đổi nợ, là hình thức khoản nợ ban đầu được chuyển thành dạng khác, chẳng hạn như đồng nội tệ.
*Sự hình thành liên kết giữa các chủ nợ. Người ta thường tranh luận rằng từ khi các chủ nợ có sự gắn kết riêng của mình (như Câu Lạc Bộ Luân Đôn và Câu Lạc Bộ Paris và có quan hệ với các tổ chức quốc tế như IMF), công bằng nếu các con nợ có sự liên kết giúp cho họ có được một mặt trận gắn kết và cùng chung tiếng nói để đặt được một giải pháp có lợi nhất đối với vấn đề nợ nước ngoài. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có nước nợ nào đủ mạnh để gánh chịu sự tức giận của các chủ nợ bằng cách sắp xếp như vậy.
*Giảm nợ nước ngoài theo sáng kiến đơn phương của các chủ nợ: Từ sau Toronto Term năm 1988, người ta đã rất có những nổ lực xoá nợ cho các nước nghèo. Gần đây nhất là sáng kiến HIPC[5] (Những Nước Nghèo Mắc Nợ Cao) được bắt đầu cách đây hai năm, theo đó một số nước như vậy được xoá rất nhiều khoản nợ để giúp cho các nước này có thể gánh được các khoản nợ còn lại.


[1] Foreign Direct Investment
[2] Multinational Corporation
[3] Ví dụ, Citi Group là Công Ty đa quốc gia, sở hữu Ngân Hàng Citibank, và nhiều công ty khác. Chi nhánh Citibank ở Việt Namlà một sự đầu tư của Citi Group vào thị trường Viêt Nam, và Citibank ở Việt Nam là FDI từ Mỹ đến Việt Nam.
[4] Term of Trade
[5] Heavily Indebted Poor Country

Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com