Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA


PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA
 1 – Giới thiệu
Kinh tế học tiến hóa (tạm dịch từ Evolutionary economics, hay Evolutionary theory of economics) được phát triển thành một học thuyết kinh tế từ năm 1982 với quyển An Evolutionary Theory of Economic Change của Richard Nelson và Sidney Winter. Tuy nhiên, những nghiên cứu liên quan đến lý thuyết này được xây dựng từ những công trình từ những năm 1940 và 1950.
Lý thuyết này bắt đầu bằng việc phê phán kinh tế học chính thống mà chủ yếu là trường phái Tân cổ điển. Kinh tế học tân cổ điển giải thích các hiện tượng kinh tế dựa trên giả định rằng các chủ thể kinh tế là những chủ thể hợp lý với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận hay độ thỏa dụng. Lý thuyết tiến hóa cho rằng các chủ thể ra quyết định dựa vào thói quen hơn là sự hợp lý, và quá trình này là một quá trình lặp đi lặp lại, trong đó các quyết định sau dựa vào những khám phá và “rút kinh nghiệm” từ những quyết định (có thể là sai lầm) trước đó và của những chủ thể khác.
Mặc dù lý thuyết này đề cập đến các chủ thể kinh tế (economic agent) nói chung, nhưng những nghiên cứu của nó cho đến nay chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp. Các nghiên cứu có đối tượng là cá nhân ít hơn, chủ yếu tập trung vào lý thuyết trò chơi. Một số nghiên cứu áp dụng phương pháp thực nghiệm (experiment) để thấy rằng các cá nhân không hoàn toàn hợp lý theo nghĩa tốt đa hóa lợi ích cá nhân.
Với giả định rằng các doanh nghiệp ra quyết định của mình dựa vào quá trình tự điều chỉnh, thị trường được cho là cơ chế chọn lọc. Những doanh nghiệp liên tục ra quyết định sai lầm sẽ có năng suất thấp và cuối cùng buộc phải rời bỏ ngành. Những doanh nghiệp ra quyết định tốt sẽ có năng suất cao và chiếm lĩnh thị trường. Những doanh nghiệp yếu hơn sẽ bắt chước các doanh nghiệp mạnh hơn. Và những quyết định “tốt” cũng sẽ được điều chỉnh cho “tốt hơn” thông qua quá trình cải tiến. Các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để mở ra thị trường mới, chiếm giữ vị thế độc quyền tương đối cho đến khi các doanh nghiệp khác bắt chước. Về mặt này, lý thuyết kinh tế học tiến hóa tiếp thu công trình của Schumpeter trong quyển Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa xã hội và Dân chủ (Capitalism, Socialism and Democracy, 1942).
Lý thuyết kinh tế học tiến hóa có ý tưởng tương tự như thuyết tiến hóa của Darwin về sự chọn lọc tự nhiên, theo đó những gen “tốt” (theo nghĩa tăng cường khả năng sống sót trong tự nhiên) sẽ được duy trì và phát triển, trong khi những gen “xấu” sẽ bị đào thải). Kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên là chỉ những sinh vật “mạnh” mới có khả năng tồn tại trong tự nhiên. Có lẽ đó là lý do lý thuyết này được gọi là Evolutionary theory of economics.
2 - Những nền tảng cơ bản
Theo Dosi & Nelson (1994), kinh tế học tiến hóa bao gồm những lý thuyết, mô hình hay lập luận với hai đặc điểm sau. Một là, mục đích của chúng là giải thích sự vận động của các sự vật hiện tượng theo thời gian. Hai là cách giải thích này bao gồm i) những yếu tố ngẫu nhiên gây ra sự vận động và điều chỉnh của biến số đang quan tâm; và ii) một cơ chế sàng lọc đối với những sự vật hiện tồn. Trên phương diện xã hội, các mô hình tiến hóa liên quan đến quá trình tìm tòi và khám phá (dựa trên những sai lầm) và một cơ chế chọn lọc.
Lý thuyết này bao gồm bốn nền tảng cơ bản: đơn vị lựa chọn cơ bản (tương tự như gen trong sinh học); một cơ chế liên kết đơn vị lựa chọn này với các chủ thể (tương tự như kiểu gen trong sinh học); một quá trình tương tác mà kết quả là sự chọn lọc; và những cơ chế gây ra sự biến đổi trong các đơn vị lựa chọn cơ bản và các chủ thể.
  • 2.1 Đơn vị lựa chọn cơ bản
Đơn vị lựa chọn có thể là công nghệ, chính sách, hành vi, các đặc trưng văn hóa. Những đơn vị lựa chọn này có ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động của các chủ thể (tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân) sở hữu nó. Những công nghệ, chính sách, hành vi, đặc trưng văn hóa có thể thay đổi và điều chỉnh theo thời gian.
Lưu ý rằng cơ chế chọn lọc sẽ chọn lọc các chủ thể chứ không chọn lọc đơn vị cơ bản. Ví dụ, thị trường loại bỏ những doanh nghiệp sử dụng tồi một công nghệ nào đó, chứ không loại bỏ công nghệ đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cơ chế chọn lọc cũng loại bỏ công nghệ, hay đơn vị cơ bản.
  • 2.2 Cơ chế và các tiêu chí chọn lọc
Đó là một cơ chế loại bỏ những chủ thể có đơn vị cơ bản “không phù hợp”. Khái niệm “không phù hợp” có thể rất chủ quan, dẫn đến những tiêu chí chọn lọc đôi khi mâu thuẫn. Ví dụ, một doanh nghiệp có thể được đánh giá tốt trên thị trường sản phẩm (vốn dựa vào các tiêu chí là chất lượng, giá cả, kênh phân phối, dịch vụ hậu mãi...), nhưng lại có thể bị đánh giá thấp trên thị trường chứng khoán (vốn dựa vào các tiêu chí như tỷ suất lợi nhuận, kỳ vọng của nhà đầu tư về lợi nhuận tương lai...).
  • 2.3 Sự biến đổi và điều chỉnh
Là quá trình mà các chủ thể mày mò học hỏi và điều chỉnh để tồn tại, đồng thời sáng tạo. Đối với doanh nghiệp, sáng tạo có thể là kết quả của quá trình nghiên cứu và phát triển. Điều này khác hẳn với kinh tế học Tân cổ điển. Kinh tế học tân cổ điển giả định doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận, và để tối đa hóa lợi nhuận, nó phải phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, đồng thời trên thị trường, chỉ những doanh nghiệp hiệu quả nhất mới tồn tại.
3 - Khắc phục những nhược điểm của Tân cổ điển
Theo Nelson và Winter (1974), kinh tế học tân cổ điển giải thích tốt trong nhiều vấn đề, nhưng cũng có nhiều lĩnh vực mà nó không giải thích được. Ví dụ, kinh tế học tân cổ điền hầu như không giải thích được những hiện tượng liên quan đến tiến bộ kỹ thuật. Hai ông cũng cho rằng các nghiên cứu về tăng trưởng dựa vào học thuyết Tân cổ điển gặp khó khăn khi giải thích ảnh hưởng của những tiến bộ kỹ thuật. Ban đầu, ảnh hưởng này đơn giản được cho là nằm trong phần dư (residual, trong mô hình kinh tế lượng). Sau đó, nhiều tác giả Tân cổ điển giải thích rằng tác động này là do chất lượng của đầu vào thay đổi. Nelson & Winter cho rằng các tác giả này đã rất sáng tạo trong nghiên cứu thực tế, nhưng rõ ràng lý thuyết mà họ dựa vào đã không đủ để giúp họ giải thích sự tăng trưởng (1).
Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, thường là những khoản đầu tư lớn trong khi kết quả không chắc chắn, lại càng không thể được giải thích bởi kinh tế học Tân cổ điển với giả định doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận.
Một ví dụ khác là sự bắt chước. Theo Nelson và Winter (1974), nếu doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận như kinh tế học Tân cổ điển, thì có lẽ tốt hơn là chờ các doanh nghiệp khác nghiên cứu, rồi sau đó bắt chước. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp chờ đợi và bắt chước này thường thất bại. Bởi lẽ điều rõ ràng là, như đã được giải thích ở lý thuyết kinh tế học tiến hóa, một doanh nghiệp được bắt chước bởi vì nó đang hoạt động tốt hơn. Và một doanh nghiệp hoạt động tốt hơn sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn.
4 - Vài nhận xét nhỏ về Kinh tế học tiến hóa
Có thể thấy kinh tế học tiến hóa có một cách giải thích hoàn toàn khác với kinh tế học Tân cổ điển về hành vi của các chủ thể kinh tế. Nó có một cách lý giải hoàn toàn khác về sự tăng trưởng của doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế. Ở kinh tế học Tân cổ điển, sự tăng trưởng là kết quả của thị trường trong việc điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Ở lý thuyết tiến hóa, sự tăng trưởng là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên.
Tuy nhiên, không thể nói rằng lý thuyết tiến hóa có thể dự đoán một hiện tượng chưa từng được biết đến trước đây. Nó cũng không thể nói rằng đã giải thích đầy đủ nguyên nhân của sự tăng trưởng vốn là một quá trình cực kỳ phức tạp. (Bản thân cách giải thích của lý thuyết này cũng cho thấy quá trình “chọn lọc tự nhiên” là một quá trình phức tạp, và kết quả là rất khó dự đoán). Ngoài ra, các nghiên cứu dựa vào thuyết tiến hóa cho đến nay vẫn mang tính định tính và mô tả nhiều hơn là định lượng (2).
Sự tiến hóa của Kinh tế học tiến hóa tại Việt Nam.

PHẦN 2: SỰ TIẾN HÓA CỦA KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA TẠI VIỆT NAM
Bài báo tự cho là giới thiệu hai vấn đề chính:
1) giới thiệu những khó khăn và bế tắc của khoa học kinh tế hiện đại trước những yêu cầu mới của cuộc sống; 2) chứng minh cách tiếp cận kinh tế tiến hóa là lối thoát tối ưu để nghiên cứu, dự báo về sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có cả vấn đề khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, những nội dung trong bài báo cho thấy tác giả Nguyễn Văn Minh đã không chỉ hiểu sai về kinh tế học tiến hóa, mà còn thiếu những kiến thức kinh tế học cơ bản. Ứng với bài báo, bài bình luận này cũng được chia thành hai phần chính.
1 – Những câu hỏi bế tắc
Nguyễn Văn Minh mở đầu với phát biểu “Công nghệ thông tin đã làm thay đổi tận gốc rễ phương thức sản xuất hiện đại”, từ đó cho rằng kinh tế học hiện đại “mất phương hướng” và không trả lời được nhiều câu hỏi. Ông đưa ra bốn câu hỏi.
Câu hỏi thứ nhất:
Bản chất của quá trình toàn cầu hóa hiện nay là gì? Nó đang hình thành và phát triển theo cơ chế nào? Toàn cầu hóa rồi sẽ đi về đâu? Nó có giới hạn hay không?
Một sinh viên ngành kinh tế có học lực trung bình cũng có thể biết rằng kinh tế học là môn học về các nguồn lực khan hiếm. Nếu kinh tế học có nghiên cứu về toàn cầu hóa, thì đó là nghiên cứu xem quá trình này ảnh hưởng như thế nào đến các hoạt động kinh tế, và do đó nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến sự phân bổ các nguồn lực. Toàn cầu hóa tự thân nó không phải là đối tượng nghiên cứu chính của khoa học kinh tế như hàm ý trong câu hỏi của Nguyễn Văn Minh.
Câu hỏi thứ hai:
...lấy cơ sở lý thuyết nào để đánh giá chất lượng của môi trường thiên nhiên, đâu là giới hạn hữu ích trong quá trình khai thác tài nguyên để phục vụ nhu cầu sản xuất của con người?
Nếu tác giả là một nhà nghiên cứu kinh tế thì chắc hẳn đã biết rằng đánh giá chất lượng môi trường không phải là một vấn đề của kinh tế học. Khoa học môi trường có một loạt các chỉ số để đo lường chất lượng các loại môi trường nước, không khí, đất...
Hay ý tác giả là đánh giá tác động về phúc lợi của chất lượng môi trường? Thật khó mà hiểu theo ý này từ lời trích dẫn ở trên, nhưng cứ cho là thế, thì kinh tế học về tài nguyên thiên nhiên có một loạt các công cụ để đánh giá tác động về phúc lợi, mà cụ thể là giá trị bằng tiền của sự thay đổi trong chất lượng môi trường. Những công cụ này có những nhược điểm của chúng, nhưng đây không phải là vấn đề mà kinh tế học tiến hóa có thể khắc phục.
Về vấn đề khai thác tài nguyên thì kinh tế học về tài nguyên thiên nhiên đã giải quyết tốt mức khai thác tối ưu đối với tài nguyên có thể tái sinh (renewable resources) và tài nguyên không thể tái sinh (nonrenewable resources). Bất kỳ ai có kiến thức sơ đẳng về kinh tế học tài nguyên thiên nhiên đều biết điều này. Có lẽ chỉ có tài nguyên không có thật là chưa được nghiên cứu mà thôi.
Đối với tài nguyên thiên niên, có lẽ khó khăn không phải ở chỗ xác định mức khai thác tối ưu như thế nào, mà ở chỗ đảm bảo mức khai thác tối ưu đó được thực thi. Nhưng đây lại là vấn đề quản lý, không phải vấn đề của kinh tế học.
Ngoài ra cũng xin nói thêm rằng thế mạnh quan trọng của kinh tế học tiến hóa so với kinh tế học chính thống là ở vấn đề tăng trưởng và tiến bộ kỹ thuật, chứ không phải là môi trường hay tài nguyên thiên nhiên.
Câu hỏi thứ ba:
... môi trường [thông tin] này có cấu trúc ra sao? Hoạt động theo nguyên lý nào? Cơ chế hao mòn hay phát triển của thông tin? Làm sao để sử dụng hiệu quả nguồn vốn con người (vốn tri thức)? Hình thù của các dạng tăng trưởng kinh tế dựa trên thông tin ra sao?
Xin nhắc lại, kinh tế học nghiên cứu về sự phân bổ nguồn lực. Môi trường thông tin nếu được kinh tế học nghiên cứu, thì sẽ là những nghiên cứu theo hướng tìm hiểu tác động của nó đến sự phân bổ nguồn lực. Bản thân môi trường thông tin và các nguyên lý hoạt động của nó (nếu có) không phải là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học.
Vấn đề vốn con người dường như không liên quan gì đến các vấn đề khác trong câu hỏi này. Không rõ kinh tế học chính thống có giúp gì được không, nhưng chắc chắn đây không phải là thế mạnh của kinh tế học tiến hóa.
Nhân tiện, nếu bạn tình cờ nhìn thấy “hình thù của các dạng tăng trưởng kinh tế” thì xin chụp hình và post ở đây cho mọi người cùng chiêm ngưỡng.
Câu hỏi thứ tư:
Vai trò của phân tích kinh tế - kỹ thuật, của dự báo sẽ như thế nào trong nền kinh tế mới? Làm sao để đảm bảo an ninh kinh tế trong môi trường thông tin toàn cầu phát triển đến chóng mặt?
Về vấn đề dự báo, hiện nay vẫn lưu truyền một câu chuyện châm biếm, rằng các nhà kinh tế học đã dự báo được 10 trong số 2 cuộc khủng hoảng gần đây, hàm ý chế nhạo sự không chính xác trong dự báo. Tuy nhiên, chưa có nhà kinh tế học nào theo thuyết tiến hóa lại dám nói rằng lý thuyết của họ có thể giúp dự báo tốt hơn. Kinh tế học tiến hóa được đưa ra không nhằm mục đích dự báo. Nó đơn giản chỉ là một cách tiếp cận khác trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế, mà chủ yếu là vấn đề thay đổi kỹ thuật của các doanh nghiệp ảnh hưởng đến tăng trưởng. Hơn nữa, các nghiên cứu dựa vào lý thuyết này cho đến nay vẫn mang tính định tính nhiều hơn định lượng và do đó không cho phép dự báo chính xác. Ngay cả khi chấp nhận những dự báo định tính, thì kinh tế học tiến hóa vẫn tỏ ra bất lực. Nó không thể dự báo một vấn đề chưa từng xảy ra trước đó, mà điều này là một thuộc tính cố hữu của sự thay đổi về kỹ thuật và công nghệ.
Môi trường thông tin phát triển chóng mặt có đe dọa mất an ninh kinh tế không? Nếu trong môi trường chóng mặt đó toàn những thông tin đúng, thì không có vấn đề gì phải băn khoăn cả. Thông tin đúng có xu hướng giúp ra quyết định hợp lý hơn và khó mà nói rằng nó đe dọa an ninh kinh tế. Có lẽ nói an ninh chính trị thì đúng hơn. Thông tin (cố tình) sai rõ ràng là vấn đề, nhưng một môi trường thông tin phát triển thực sự sẽ không có chỗ đứng cho những thông tin như vậy.
Dù sao đi nữa, kinh tế học chính thống, và cả kinh tế học tiến hóa được xây dựng không nhằm mục đích tìm cách đảm bảo an ninh kinh tế trong môi trường thông tin phát triển.
Từ những “câu hỏi” đó tác giả kết luận:
Nên không phải ngẫu nhiên giới nghiên cứu cho rằng, lúc này là thời điểm khủng hoảng của kinh tế học hiện đại.
và:
Cộng đồng khoa học quốc tế đang nỗ lực để xây dựng một bảng hình thái mới (paradigm), làm cơ sở phương pháp luận cho kinh tế học tri thức hôm nay.
Không rõ khi nào thì kinh tế học chính thống bị khủng hoảng, nhưng chắc chắn rằng việc một bài báo như thế này được đăng ở một tạp chí khoa học kinh tế là một dấu hiệu của sự khủng hoảng trong môn học này tại Việt Nam.
Cũng xin lưu ý rằng lý thuyết về kinh tế học tiến hóa cũng chỉ được một số nhà nghiên cứu áp dụng. Tạp chí Journal of Evolutionary Economics chuyên đăng các bài nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận của lý thuyết này. Tuy nhiên các tạp chí Kinh tế học hàng đầu thế giới như American Economic Review, Journal of Political Economy, Journal of Economic Theory, Journal of Economic Literature đều khó tìm thấy những công trình của kinh tế học tiến hóa. Course outline môn kinh tế học của các trường đại học danh tiếng cũng hiếm thấy xuất hiện từ “evolutionary economics”. Do đó, kinh tế học tiến hóa có thể đang được một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học xây dựng, áp dụng và phát triển, nhưng không thể nói là “cộng đồng khoa học quốc tế...”
2 - Lối thoát quá hiểm
Phần thứ hai của bài viết giới thiệu cách tiếp cận tiến hóa như là “lối thoát hiểm cho kinh tế học hiện đại”. Tuy nhiên, đọc qua và đối chiếu với phần giới thiệu của Nelson, Winter hay Dosi, vốn là những người sáng lập lý thuyết này, thì thấy tác giả Nguyễn Văn Minh đã không hiểu đầy đủ về kinh tế học tiến hóa.
Nguyễn Văn Minh viết:
Bản chất của cách tiếp cận này là xem đối tượng nghiên cứu như một cơ thể sống, phát triển qua từng giai đoạn theo chu kỳ: hình thành, phát triển, chín muồi và suy thoái, tuân thủ những qui luật tiến hóa chung...”
Cách tiếp cận của kinh tế học tiến hóa là xem đối tượng nghiên cứu gần giống như một cơ thể sống, nhưng không phải phát triển theo các chu kỳ như trên. Cách tiếp cận này xem các chủ thể kinh tế như là những “sinh vật” phải tự điều chỉnh để duy trì sự tồn tại của mình trong một môi trường “khắc nghiệt”, được gọi là cơ chế chọn lọc. Các chủ thể, dưới tác động của cơ chế chọn lọc, sẽ phải loại bỏ những “gen xấu” và duy trì những “gen tốt”. Quá trình tự điều chỉnh của các chủ thể còn bao gồm các hoạt động bắt chước, tìm tòi và sáng tạo. Và sự phát triển kỹ thuật và công nghệ chính là kết quả của quá trình điều chỉnh để tồn tại của các chủ thể.
Nguyễn Văn Minh cũng giới thiệu ba đặc điểm của cách tiếp cận tiến hóa, nhưng khác hẳn với những nền tảng cơ bản của Dosi và Nelson. Chỉ có một điểm phù hợp, đó là giải thích sự vận động của các hiện tượng theo thời gian.
Chỉ bằng vài câu giới thiệu chưa đúng về bản chất của kinh tế học tiến hóa và nêu ra ba đặc điểm của lý thuyết này (mà cha đẻ của nó cũng sẽ nhận không ra), tác giả đã kết luận rằng:
Giờ đây người ta có cơ sở để tin rằng, đứng trước bất kỳ một sự thay đổi nào của môi trường, của khoa học – công nghệ hay của kinh tế - xã hội, chỉ cần nắm bắt được quy luật tiến hóa thì ta có thể hoàn toàn dự báo được chính xác kịch bản phát triển của chúng trong tương lai.
Giống như kinh tế học tân cổ điển, kinh tế học tiến hóa cũng phải dựa vào quan sát thực tế để dự báo. Do đó, những dự báo của nó cũng có thuộc tính cố hữu của dự báo nói chung: đó là sự không chính xác hoàn toàn. Cách tiếp cận mới của kinh tế học tiến hóa không giúp nó dự báo tốt hơn, mà còn đưa vào hàng loạt các yếu tố làm cho việc dự báo trở nên khó khăn hơn.
Trên quan điểm kinh tế học tiến hóa, sự tồn tại và phát triển của một chủ thể kinh tế phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố ngẫu nhiên. Các chủ thể nằm trong một môi trường hay cơ chế chọn lọc (ví dụ, doanh nghiệp và thị trường) với những thay đổi khó dự đoán trước. Dĩ nhiên, sự thay đổi của cơ chế chọn lọc sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ thể.
Kế đến, trong quá trình tự điều chỉnh để tồn tại, chủ thể ra hàng loạt các quyết định mà phần lớn là không thể dự đoán. Chẳng hạn, nếu là hoạt động “bắt chước” của doanh nghiệp, thì việc bắt chước những doanh nghiệp “mạnh” khác nhau sẽ dẫn đến sự phát triển khác nhau của chủ thể. Mà việc bắt chước doanh nghiệp nào thì khó dự đoán, phụ thuộc nhiều vào thông tin, sự tình cờ... Đôi khi nó cũng giống như việc bạn quyết định bước chân trái hay chân phải trước, khi ra khỏi nhà.
Lại nữa, nếu là hoạt động nghiên cứu và phát triển, thì việc chủ thể lựa chọn đầu tư vào những dự án nghiên cứu phát triển khác nhau sẽ dẫn đến những sự phát triển khác nhau trong tương lai. Vì kết quả nghiên cứu là không chắc chắn, nên rất khó nói rằng quyết định nào là đúng. Những phương án lựa chọn cũng phát sinh do nhiều yếu tố ngẫu nhiên.
Đó có lẽ là lý do những dự báo từ những nghiên cứu áp dụng kinh tế học tiến hóa thường có tính định tính chứ không định lượng.
Cuối cùng tác giả khẳng định:
Nên không có gì ngạc nhiên khi kinh tế học tiến hóa nghiễm nhiên trở thành lối thoát sáng giá nhất trên con đường đi tìm lời giải thích cho những bí ẩn của nền kinh tế tri thức.
Điều đáng ngạc nhiên nhất có lẽ chính là việc ai đó có thể phát biểu một câu như vậy. Chính những nhà sáng lập lý thuyết kinh tế học tiến hóa cũng rất dè dặt nói rằng kinh tế học tân cổ điển giải thích tốt trong nhiều trường hợp, nhưng không giải thích được một số tình huống khác, đặc biệt là những vấn đề tăng trưởng liên quan đến sự thay đổi về kỹ thuật. Việc một tác giả giới thiệu sai về bản chất của một “lối thoát hiểm” trên một tạp chí uy tín có thể làm cho nó trở thành một lối thoát rất hiểm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dosi, G. & Nelson, R. 1994. An Introduction to Evolutionary Theories in Economics. Journal of Evolutionary Economics 4: 153-172.
Nelson, R., Winter, S. 1974. Neoclassical vs. Evolutionary Theories of Economic Growth: Critique and Propectus. The Economic Journal 886-905.
Nguồn: đang cập nhập


















Paul Krugman với "Sự trở lại của kinh tế học suy thoái"


Nhà dự báo khủng hoảng tài ba Paul Krugman đã nhận được giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008. Tuy đến năm 2008 mới chính thức được Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao giải thưởng giá trị này nhưng trong vòng hơn 10 năm qua, những nghiên cứu của Krugman thực sự rất có giá trị trong lĩnh vực kinh tế học, đặc biệt là những nghiên cứu của ông về khủng hoảng và suy thoái kinh tế trên thế giới. Những nghiên cứu, những phát biểu của Krugman trước năm 2008 có những lúc bị “người ta” “lơ đãng” và “thờ ơ”. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính, rồi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra như một bằng chứng khách quan nhất khẳng định tính chính xác và đúng đắn về những tiên đoán của Krugman về vấn đề suy thoái kinh tế.
Là Giáo sư giảng dạy môn thương mại quốc tế và địa kinh tế tại Trường Đại học Princeton và chủ bút mục kinh tế cho tờ Times, trong những năm qua Paul Krugman đã viết rất nhiều sách và các bài báo, bài nhận định, phân tích, phê bình… về những bất ổn của nền kinh tế thế giới với những nguy cơ khủng hoảng và suy thoái tiềm ẩn ngay trong giai đoạn tăng trưởng ấn tượng của kinh tế toàn cầu. Với những sự xem xét, phân tích, đánh giá và so sánh về một cách toàn diện giữa những biến động kinh tế tại các nước và khu vực như Châu Mỹ Latinh, Nhật Bản, Mexico…trong vòng 20 năm qua với cuộc đại suy thoái 1930, Paul Krugman như tiên liệu được về một sự lặp lại của lịch sử suy thoái kinh tế. Và “Sự trở lại của kinh tế học suy thoái’ của Paul Krugman thực sự cần được xem xét nghiêm túc để giúp thế giới vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay.
“Kinh tế học suy thoái” – một khái niệm mới trong kinh tế học?
Kinh tế học suy thoái là một khía cạnh của kinh tế học, là khoa học nghiên cứu về nguyên nhân gây ra thất bại của nền kinh tế và cách thức giải quyết chúng. Biểu hiện của sự thất bại của nền kinh tế ở đây chính là những đợt suy thoái triền miên của nền kinh tế, gây ra những ảnh hưởng mang tính hệ lụy lâu dài đối với sự phát triển mang tính bền vững của một quốc gia, khu vực và cả thế giới.
Vì trước suy thoái kinh tế năm 2008 đã có rất nhiều đợt suy thoái kinh tế (điển hình là cuộc Đại suy thoái 1930) nên thực sự khái niệm “kinh tế học suy thoái” cũng không thực sự quá mới mẻ đối với những ai quan tâm tới kiến thức và sự hiểu biết về suy thoái, về khủng hoảng (như Paul Krugman chẳng hạn). Nó chỉ mới với những ai “thờ ơ” với nguy cơ suy thoái hay khủng hoảng kinh tế hoặc đối với những người đã “ngủ quên” trên những sự tăng trưởng ấn tượng của nền kinh tế toàn cầu trong thời gian vừa qua (khoảng gần 1 thập kỷ trở lại đây, trước cuộc suy thoái kinh tế năm 2008).
Kinh tế học suy thoái chỉ ra rằng sự thất bại về mặt cầu của nền kinh tế là nguyên nhân chính gây ra sự “tắc nghẽn” trong “chu trình vận hành” của một nền kinh tế. “Trở lực” chính là sự thiếu hụt tín dụng của người dân cho tiêu dùng. Việc không có đủ chi tiêu cá nhân sẽ gây ra việc không thể tận dụng hết công suất sản xuất của một nền kinh tế. Năng lực sản xuất lớn, khối lượng sản phẩm được tạo ra nhiều nhưng không được sử dụng sẽ tạo nên cuộc khủng hoảng “thừa”. Như vậy, chính mặt cầu hạn chế đã làm ảnh hưởng tới cung.
Việc phân tích nguyên nhân của suy thoái kinh tế cũng là một cách để phê phán trường phái kinh tế học trọng cung (supply-side economics). Và cuộc suy thoái kinh tế xảy ra lại cung cấp thêm những bằng chứng bác bỏ trường phái này. Từ đó, tạo nên một sự dịch chuyển trong cán cân tranh luận lý thuyết kinh tế học trọng cung và trọng cầu.
Về nguyên tắc, trong dài hạn những sự sụt giảm của tổng cầu sẽ tự điều chỉnh khi có sự thay đổi nhanh chóng của tiền lương và giá cả. Tuy nhiên trên thực tế thì giá cả không giảm nhanh được, đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái (nhìn nhận ngắn hạn hơn là dài hạn để giải quyết vấn đề trong suy thoái).
Phương án giải quyết và những vấn đề?
Sẽ có phương án tối ưu chăng?
Như phân tích trên, nguyên nhân dẫn đến suy thoái là do việc thiếu hụt chi tiêu cho tiêu dùng. Do đó để giải quyết vấn đề suy thoái kinh tế nên bắt đầu từ việc cung cấp tín dụng cho tiêu dùng với mục tiêu kích cầu để tận dụng tối đa công suất sản xuất của nền kinh tế. Việc “khơi thông” dòng tín dụng và đẩy mạnh chi tiêu là rất quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng.
Trong bối cảnh khủng hoảng, sự thắt chặt tín dụng sẽ “thật điên rồ”! Tuy nhiên phải công nhận rằng không dễ dàng để thực hiện nó cho dù đã biết tính hữu dụng của giải pháp. Sở dĩ như vậy là bởi chúng ta còn phải đối mặt với sự trở lại của làn sóng lạm phát mà trước đó không lâu chúng ta phải “khốn đốn” vì nó. Lại một lần nữa, chúng ta phải đối diện với sự đánh đổi (trade-offs) khi ra quyết định! Và có chăng tâm lý và sự kỳ vọng vào chính sách cũng ảnh hưởng tới quyết định của những nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh “nguy khốn”? Bên cạnh đó, “niềm tin trong khủng hoảng” cũng là một yếu tố có thể gây ra việc thắt chặt tín dụng. Người dân và các tổ chức tín dụng không muốn giao dịch trong bối cảnh như vậy khi mà lòng tin của họ về sự an toàn và đảm bảo cho tài sản của họ đã bị suy giảm trầm trọng. Niềm tin hay lòng tin của tập hợp nhiều cá nhân trong xã hội có thể được gọi chung dưới thuật ngữ “vốn xã hội”. Hay nói cách khác suy thoái đã làm cho “vốn xã hội” suy giảm; đến lượt nó, sự suy giảm của “vốn xã hội” sẽ làm cho xác suất xảy ra giao dịch tín dụng giảm (chi phí giao dịch sẽ tăng khi “vốn xã hội” giảm đi); giao dịch tín dụng khó được thực hiện thì nguy cơ về sự “tắc nghẽn” dòng tín dụng là rất lớn. Như vậy, suy thoái kinh tế và nguy cơ khủng hoảng đã xóa đi nguồn vốn tín dụng.
Vậy ai sẽ có vai trò quan trọng trong bối cảnh như thế này?
Sự phản ứng và hành động “khôn ngoan” và kịp thời của chính phủ các nước sẽ là cần thiết. Chính phủ sẽ phải hành động để thực hiện sứ mệnh của một nhà sửa chữa những thất bại của thị trường mà chính nó gây ra cuộc suy thoái hiện tại. Bổ sung thêm vốn và cung cấp tín dụng để đảm bảo cho việc kích cầu sẽ là một “phản ứng chuẩn mực” trong bối cảnh này của chính phủ các nước. Điều quan trọng mà chúng ta quan tâm đó là năng lực để có thể đưa ra được những gói kích cầu phù hợp của mỗi chính phủ. Liệu chính phủ có đủ lượng vốn dự trữ không? Dung lượng của gói kích cầu bao nhiêu là vừa đủ để có thể vừa kích cầu thành công mà không gây áp lực lạm phát trở lại? Đối tượng mục tiêu nào sẽ được ưu tiên kích cầu cho từng nền kinh tế gắn với những điều kiện và đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể? Và nhiều vấn đề khác nữa… Tất cả những điều đó sẽ quyết định hiệu quả của chính sách kích cầu!
Ngoài ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, khi mà mỗi một nền kinh tế là một mắt xích trong hệ thống toàn cầu và sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng là rất lớn thì việc các nền kinh tế liên kết với nhau trong việc đưa ra các chính sách để đối phó với suy thoái là cần thiết.
Song song với việc kích cầu thì chúng ta cũng không nên “lãng quên” phía cung của nền kinh tế để làm sao cho việc chi tiêu cho tiêu dùng cũng tương xứng với khả năng sản xuất để tạo nên những sản phẩm thực cho nền kinh tế. Do đó, việc kiểm soát dòng tín dụng để nó không tạo nên “bong bóng thị trường” cũng rất là quan trọng đối với chính phủ các nước. Có ý kiến cho rằng nên thực hiện chi tiêu ở khu vực công vì như vậy vì việc chi tiêu này một mặt sẽ giúp kích cầu các sản phẩm, hàng hóa liên quan; mặt khác sẽ giúp tạo ra những tài sản tương ứng (như cơ sở hạ tầng).
Hệ thống tài chính cần phải được đổi mới để lành mạnh và vững chắc hơn?
Ngày nay, hệ thống tài chính có một vai trò tối quan trọng trong “sự vận hành thông suốt” của một nền kinh tế. Nó được ví như là “huyết mạch” của nền kinh tế. Hệ thống tài chính cùng với hệ thống ngân hàng như là một “sợi dây kiên kết” quan trọng giữa khu vực tài chính và khu vực phi tài chính trong một nền kinh tế. Bởi lẽ đó, nếu như có một sự “trục trặc” nào đó ở hệ thống này thì những điều “tồi tệ” không chỉ liên tiếp xảy ra trong khu vực tài chính (sự phá sản của các ngân hàng, các tổ chức và định chế tài chính) mà còn sẽ xảy ra đối với cả nền kinh tế (sự sụp đổ của nền kinh tế), khu vực kinh tế, thậm chí là đối với nền kinh tế toàn cầu khi mà mức độ hội nhập và liên kết giữa các hệ thống tài chính các nước ngày càng tăng. Do đó, việc làm cho hệ thống tài chính càng trở nên minh bạch, lành mạnh, hoạt động an toàn và có hiệu quả là vô cùng quan trọng trong bối cảnh hiện nay.
Để làm được điều này thì cách thức quản lý của chính phủ đối với hoạt động của các ngân hàng, các tổ chức tài chính và sự luân chuyển dòng vốn giữa chúng là rất quan trọng trong mỗi nền kinh tế. Sự quản lý này cần phải tương ứng với quy mô của hệ thống tài chính, với tốc độ tăng trưởng của hệ thống ngân hàng để có thể kiểm soát kịp thời những vụ “hoảng loạn” ngân hàng do động cơ về mặt lợi ích, lợi nhuận gây ra. Những quy định mang tính bắt buộc được “luật hóa” mà chính phủ đưa ra đối với tất cả chủ thể tham gia trên thị trường tài chính – ngân hàng là rất cần thiết nhằm duy trì một trật tự an toàn cho hệ thống tài chính và cả nền kinh tế. Cần chú ý rằng, những quy định này như những “luật chơi” được thiết kế để tạo ra một thể chế phù hợp mà trên đó hệ thống tài chính được vận hành an toàn, thông suốt và hiệu quả chứ không ngăn cản sự phát triển của hệ thống tài chính hay “bóp méo” thị trường.
Bên cạnh chính phủ các nền kinh tế đưa ra những chính sách quản lý hệ thống tài chính phù hợp cho riêng mình thì việc quản lý toàn cầu hóa hệ thống tài chính cũng là rất quan trọng.

Trong tương lai sẽ còn có những cuộc suy thoái kinh tế mới?
Hiện nay chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế ở các khu vực và toàn cầu đang cố gắng làm tất cả những gì có thể để kinh tế thế giới thoát khỏi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng 2008 này có trầm trọng như thế nào đi nữa rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng quan trọng là sau cuộc khủng hoảng này, người ta (chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế, các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh tế học…) sẽ rút ra được những bài học gì cho tương lai về sự hiểu biết và thái độ đối với “kinh tế học suy thoái”.
Thật khó có thể nói trước được là sau sự suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 sẽ còn có những cuộc suy thoái kinh tế mới hay không? Sự cẩn trọng có cơ sở sẽ luôn cần thiết cho sự an toàn của các nền kinh tế. Điều đó rất có thể lại phụ thuộc vào tư tưởng đương đại về nó. Vì vậy, việc thay đổi tư duy kinh tế, cách nhìn nhận vấn đề kinh tế phù hợp cũng là một điều hữu ích giúp chúng ta phát triển nền kinh tế bền vững.
Xin kết thúc bài viết này với một câu nói rất nổi tiếng của Keynes: “Sớm hay muộn, chính tư tưởng chứ không phải nhóm lợi ích cục bộ sẽ quyết định sự thành bại”.
Tài liệu tham khảo:
N. Gregore Mankiw (1994). Macroeconomics – Second edition. Dịch bởi Nguyễn Văn Ngọc và các tác giả (1996). Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê.
Paul Krugman (2009). The return of Depression Economics and the crisis of 2008. Dịch bởi Nguyễn Dương Hiếu, Nguyễn Trường Phú, Đặng Nguyễn Hiếu Trung, Nguyễn Ngọc Toàn. TP.HCM: Nhà xuất bản Trẻ.

Nguồn: đang cập nhập