Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2011

Bài luận lý thuyết vị thế-chất lượng :sản phẩm hay tầm nhìn

Quan điểm về sự duy lý, liệu thực sự có lý ?

“ Chúng tôi bán theo thị trường, anh không cần phải trả giá ”. Đó là câu người ta thường nói trong đa phần các cuộc giao dịch. Đã từ lâu chúng ta luôn hiểu rằng giá cả theo thị trường là sự đồng tình về lợi ích giữa đa số người mua và người bán, hay nói cách khác ở mức giá đó cả hai đều có lợi và cảm thấy hài lòng. Vì thế tâm lý chúng ta cũng tự cảm thấy yên tâm và chấp nhận vì ít ra cũng chẳng dễ bị lầm khi đã có nhiều người trải qua trước đó. Mặt khác, niềm tin đó còn được củng cố một cách mạnh mẽ bởi những nhà tri thức hàn lâm qua lý thuết của Kinh tế hoc Tân cổ điển (KTHTCĐ) với quan điểm cho rằng : những nguời tham gia mua bán trong một thị trường thì đều có những kỳ vọng, dự đoán và đưa ra được những quyết định hợp lý, bởi vì những quyết định của họ đã đựợc suy xét rất kỹ lưỡng do dựa trên mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận và những thông tin minh bạch sẵn có trên thị trường. Ngoài ra bất cứ khi nào có thông tin mới xuất hiện, các đối tượng sẽ tự động cập nhật lại dự đoán của mình một cách thích hợp. Khi đối mặt với các thông tin mới, mỗi nhà đầu tư sẽ có cách phản ứng khác nhau, tất cả những gì mà giả thuyết thị trường hiệu quả đòi hỏi chỉ là, phản ứng của các nhà đầu tư hoàn toàn ngẫu nhiên, để ảnh hưởng ròng của chúng (sau khi đã bù trừ lẫn nhau) lên giá thị trường không bị nhà đầu tư khai thác để kiếm lợi nhuận cao một cách bất thường, đặc biệt sau khi đã trừ chi phí giao dịch. Do đó, bất cứ ai cũng có thể sai dự đoán sai về thị trường, nhưng do giá thị trường là sự tổng hợp từ những thông tin, những kỳ vọng hợp lý và luôn hướng tới sự hợp lý nên xét trên tổng thể GIÁ THỊ TRƯỜNG LUÔN ĐÚNG.

Nhưng hãy xem điều gì đã xảy ra với nền kinh tế vào năm 2008 mà nguồn gốc là những khoản tín dụng dưới chuẩn được nới lỏng mà mục đích là để đổ vào thị trường đang nóng là BĐS, nhưng có lẽ người ta vẫn an tâm vì cho rằng nó được xem rất kỹ lưỡng với đầy đủ thông tin chính xác và minh bạch, do đó những nhà quản lý vĩ mô có thể thản nhiên ngồi xem thị trường chơi trò mạo hiểm, đó là tung hứng những món vay như những bong bóng xà phòng từ tay người này qua tay người khác mà khi bóng bóng đã xuất hiện và bay cao thì việc chúng vỡ chỉ là vấn đề thời gian. Mặt khác lý thuyết cũng nói rằng Ngân hàng Trung ương (NHTW) cho dù cũng chẳng biết đuợc các Ngân hàng Thương mại cho vay bao nhiêu và họ công nhận đều đó nhưng họ vẫn có thế kiểm soát được. Nhưng thực tế thì không hoàn toàn như con người nghĩ, và khi NHTW bắt đầu ra tay để cứu lấy nền kinh tế thì một số NHTM hàng đầu của Mỹ đã đệ đơn xin phá sản chỉ vì...người ta nợ họ quá nhiều.

Vậy thì khi mọi việc đã rõ ràng, bài viết này sẽ không đi sâu vào việc phê phán thất bại này như là một sự hạn chế về mặt tư duy (sẽ nói rõ ở phần sau) dẫn đến những hành vi phi lý của những người tôn sùng chủ nghĩa duy lý và cố tình lờ đi thực tế hay đây chỉ là một sự bịp bợm của môt nền tri thức, hoặc của những kẻ hám lợi tận tụy cho mục đích cá nhân, mà đơn giản là đưa ra một điểm nhìn khác về khía cạnh hành vi con người để từ đó hy vọng chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.

Ánh sáng ở đây là chúng ta hiểu được những quyết định phi lý và sự tồn tại của nó trong suy nghĩ con người. Hiểu được quan điểm đằng sau những quyết định của một ai đó nghĩa là chúng ta hiểu được nhu cầu của họ, và người ta nói rằng khi bạn hiểu được con người muốn gì thì bạn sẽ bán hàng được cho cho tất cả mọi người trên thế giới này; Khi bạn nắm bắt được suy nghĩ trong hành vi của con người, nghĩa là bạn có được trái tim của họ, đồng nghĩa với việc bạn điều khiển được họ. Nhưng chúng ta sẽ không bàn đến chuỵện trở thành bá chủ thế giới ở đây mà sẽ quan tâm đến việc đưa ra những luận đỉêm về sự lưa chọn của người tiêu dùng dành cho BĐS, một lĩnh vực nhỏ hơn nhiều.

Chúng ta muốn điều gì ?

Với quan điểm của mình, trường phái KTHTCĐ đề cao lý trí của con người với những hành vi sáng suốt, đúng đắn do từng cá nhân có quyền quyết định chi tiêu bao nhiêu trong danh mục của mình để làm tăng tối đa lợi ích. Thực sự lý thuyết đã đúng khi mô tả những hiện tượng kinh tế xảy ra dựa trên hành vi của con người, và đương nhiên lý thuyết sẽ không sai nếu như những hành vi con người là đúng (thuần lý). Nhưng thực tế một niềm tin vào những quyết định sáng suốt của con người đã đẩy thị trường đến viễn cảnh phi thực tế.

Vậy thì hãy xem lại điều gì là nguồn gốc của những quyết định này và điều gì chi phối mạnh mẽ đến những quyết định đó ? Câu trả lời vẫn không mới : NHU CẦU và Ý THỨC. nhu cầu làm cho con người phải vận động, là động cơ thúc đẩy hành vi của con người, để từ đó đạt đến sự thỏa mãn về cá nhân ( được sinh tồn, an toàn…) và về xã hội ( được chấp nhận, ngưỡng mộ…) Còn ý thức sẽ chỉ cho chúng ta một con đường để đạt được những nhu cầu đó theo cách mà chúng ta cho là hợp lý nhất, phù hợp với môi trường, hoàn cảnh, quan niệm, trào lưu…của xã hội, cộng động mà chúng ta đang sống. Chẳng hạn một con người khi đói ở trong rừng sâu sẽ hành động khác một con người ở nơi văn minh để thỏa mãn cùng một nhu cầu. Bạn không thể hái táo trong siêu thị rồi ăn tại chỗ mà không bị mọi người nhìn với một ánh mắt hiếu kỳ, ít ra là trước khi người ta đưa ra một hình thức tiếp cận mới về sản phẩm và nó đã trở thành xu hướng. Vậy nói tóm lại, chúng ta hành động dựa trên nhu cầu và theo hướng mà ý thức chỉ dẫn; mặt khác ý thức, quan niệm, nhận thức…của chúng ta đều chịu ảnh hưởng của những quan niệm xung quanh khác như: Ăn ở đâu ? Mặc giống ai ? Sống ở khu nào ?.... Do đó một người tự nhận là không đi theo xu hướng của đại chúng, của đám đông theo kiểu “Tôi là tôi - Tôi khác biệt ” thì thực chất là họ đang đi theo một xu hướng của một đám đông khác có cùng quan điểm giống họ.

Theo nhà nghiên cứu tâm lý xã hội F.A. Hayes : Chính vì sự HẠN CHẾ về TƯ DUY dẫn đến sự lệ thuộc vào ĐÁM ĐÔNG, vào những xu hướng chung về nhiều mặt của xã hội (XH), nên từ đó làm cho con ngườii dễ dàng bị phụ thuộc vào các QUY TẮC ỨNG XỬ chung của XH. Mặt khác những quy tắc này luôn chi phối, hướng cho các HÀNH ĐỘNG của cá nhân trở nên phù hợp với quan niệm đại chúng của XH. Từ đó tạo ra một TRẬT TỰ nhất định cho XH, dựa trên sự TƯƠNG ĐỒNG về quan điểm, tiêu chuẩn của đám đông và từ đó người ta (hay XH) gọi đó là những hành vi CÓ LÝ. Nhưng thực tế thì những hành vi được gọi là có lý này chưa chắc đã đúng, logic, phù hợp với khoa học. Vì thế sự khác nhau giữa 2 BẢN CHẤT: có lý & vô lý chỉ là sự khác nhau về LƯỢNG số người đồng quan điểm, và do đó VÔ LÝ đơn giản chỉ là CHƯA CÓ LÝ tại môt thời điểm nhất định mà thôi. Vậy vô lý hoặc có lý không nằm ở bản chất của hiện tượng mà chỉ là do nhận thức chủ quan của con người, XH đó tại một thời điểm nhất định và sự nhận thức chủ quan đó phụ thuộc vào nhu cầu, thị hiếu, trình độ văn hóa, giai cấp, vị thế, truyền thống dân tộc, xu hướng XH, môi trường xung quanh.....của người nhận thức.

Vậy thì tại sao những lý thuyết về hành vi con người đã tồn tại từ lâu nhưng nó vẫn phản ánh đúng những sai lầm mà tương lai trước nó đã và đang gặp phải, hay nói cách khác vì sao con người biết những điều này nhưng khi gặp những hoàn cảnh thực tế thì đa số vẫn bị dẫn dắt theo một quan điểm đại chúng nào đó chứ không theo lý trí ? Điển hình là vụ dot.com tại thị trường chứng khóan Mỹ. Vào thời điểm đó, những cty nào mà có đuôi “.com” phía sau thì giá trí cổ phiếu ngay lập tức tăng lên khoảng 20% cho dù người ta chẳng biết cty đó hoạt động ra sao, lố bịch hơn có những cty chẳng có liên quan gì trong lĩnh vực internet miễn sao có đuôi “.com” là sẽ có nhiều người mua. Nhưng khi thị trường quay đầu thì những cty nào nhanh tay gỡ bỏ cái đuôi “.com” ra khỏi thương hiệu của mình thì giá trị cô phiếu lại tăng lên cũng xấp xỉ gần 20%.

Qua quá trình nghiên cứu bằng mô hình nhân quả, Hayes kết luận rằng : cá nhân bình thường hiếm khi nhận ra được mình đang bị chi phối bởi những quy tắc hành xử gì và vì thế anh ta chỉ có thể đưa ra được những quan niệm đại chúng về các hiện tượng xã hội. Điều này trở thành thói quen và luôn hướng những hành động của chúng ta theo thói quen đó một cách vô thức, và trở thành một phần của những phản xạ trong tiềm thức khi chúng ta ra quyết định. Một cách lý giải mang tính tự nhiên khác là : trong chúng ta, bất kỳ ai đã, đang và cũng sẽ có những hành xử phi lý trý, những cảm nhận chủ quan mang đầy cảm xúc về những gì chúng ta đối mặt, không chỉ một vài lần, chúng ta liên tục phi lý, phi lý có hệ thống, phi lý có thể dự đoán được, nhưng “không một ai lại bất lực trước quyền lực của sự phi lôgic. Những ai tỉnh táo và hiểu rằng khi nào và ở đâu người ta đưa ra những quyết định phi lý, người đó có thể thành công trong việc cân bằng những "thâm hụt tự nhiên" của mình.”
                                                                                                                                            ( Dan Ariely )
Tóm lại, chúng ta đã hiểu được những quyết định xuất phát từ mong muốn của con người đa phần là không thuần lý và điều đó gần như không thể nào thay đổi được một khi con người sở hữu bộ não.Vậy điều chúng ta cần làm ở đây đó là đưa ra những chuẩn mực nhằm tôn trọng, thỏa mãn những nhu cầu phi lý của người tiêu dùng. Chúng ta làm điều này dựa trên cơ sở phương pháp luận của Hayes rằng : “…chúng ta chỉ có thể hiểu được đúng đắn các hiện tượng xã hội thông qua việc tái dựng lại các hiện tượng đó từ các hành động độc lập của các cá nhân cũng như những thứ gắn với hành động cá nhân như niềm tin, thái độ, mong muốn, kỳ vọng v.v…theo một nguyên lý nhất định… và không tồn tại những “tổng thể xã hội” hay “tổ chức xã hội” ngoài những mô hình hay cấu trúc lý thuyết được chúng ta tạo ra dựa trên những thứ ẩn sau hành động…” và “ Bằng cách tiếp xúc với các cá nhân liên quan, chúng ta có thể phát hiện ra những quan niệm đóng vai trò như là những phần tử thường xuyên xuất hiện, cấu thành hiện tượng hay thực tế xã hội cần lý giải ”. Đây là phương pháp mà Hayes goi là cấu trúc mối quan hệ Nhân – Quả trong đó Nhân là những hành động được tái dựng lại và nhựng thứ ẩn sau hành động : niềm tin, kỳ vọng, thái đô…Còn Quả là những chuẩn mực, qui tắc XH được hình thành từ quá trình của Nhân, từ đó có thể mô hình hóa nguyên tắc này để hình thành những nguyên lý chung mang tính quy luật cho con người và rộng hơn nữa là toàn XH.

Chấp nhận phi lý để có lợi nhuận hợp lý

Trong lĩnh vực BĐS, quyết định mua nhà không đơn thuần là một sự lựa chọn chỉ hướng đến những lợi ích vật chất ( thuần vật chất), mà người mua luôn bị chi phối nhiều về mặt tâm lý nên những lợi ích mà người tiêu dùng cảm nhận được mang tính rất chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu, đam mê, trình độ văn hóa, địa vị… và bị chi phối bởi thương hiệu, niềm tin,xu hướng, giá trị hình ảnh mang lại. Do đó mỗi quyết định lựa chọn đều phải thỏa mãn 2 nhu cầu CHẤT LƯỢNG & VỊ THẾ. Vậy thì từ những xuất phát điểm khác nhau dẫn đến những nhu cầu khác nhau và tất yếu sẽ dẫn đến những phân khúc khác nhau mà thị trường tạo ra để đáp ứng những nhu cầu này. Hãy giả sử khi thu nhập tăng thì người tiêu dùng (NTD) sẽ vẫn ở khu cũ và nâng cấp ngôi nhà của mình lên hay sẽ chuyển hẳn tới một nơi tập trung những người giàu có hoặc trí thức – một nơi mà giá trị các mối quan hệ sẽ cao hơn. Và hầu như các câu trả lời là đều chuyển đi nhưng chính xác hơn là khi thu nhập tăng vượt qua ngưỡng nào đó. Ta gọi đó là đường ngưỡng mong muốn và sẽ phụ thuộc vào mỗi người, nhưng vì tâm lý hành vi của con người đều mang những quy luật giống nhau dựa trên các nguyên tắc chung nên đường ngưỡng này cũng mang tính quy luật và chắc chắn xảy ra, nhanh hay chậm tùy thuộc vào những chuẩn mực, thị hiếu hiện thời của xã hội nhưng bất kỳ ai cũng luôn muốn huớng tới đỉnh của tháp nhu cầu (Maslow), không ai muốn sống ở những nơi bị đánh giá thấp, những khu nhà dành cho người thu nhập thấp - những “ trại tâp trung ”. Đương nhiên sẽ có một số cá biệt đối với những người có những kỷ niệm sâu sắc nào đó ở nơi ở cũ .

Ở một khía cạnh khác, nếu không có khu tập trung nhà giàu hay đám đông nhà giàu thì đa phần họ sẽ vẫn ở nơi cũ cho dù thu nhập tăng như thế nào. Vậy những xu hướng mà đám đông đang thể hiện, đang theo đuổi vô hình tác động vào niềm tin và sự cảm nhận mới về vị thế của họ - tầng lớp trưởng giả mới. Điều này có thể thấy rõ qua xu hướng di dân ngược ra ngoại ô của tầng lớp trí thức trẻ từ những thành phố lớn ở Trung Quốc. Điển hình là Thượng Hải – một thành phố hiện đại mà ở đó quan niệm vùng miền rất rõ ràng : chỉ những người sinh ở phố Tây mới được gọi là dân Thượng Hải chính gốc, còn ở phố Đông – do sinh sau đẻ muộn nên vẫn bị xem là nhà quê tỉnh lẻ. Mặt khác không thể phủ nhận giá nhà đắt đỏ, khả năng mua nhà đã thành phi thực tế và nhân tài quá nhiều tại đây là một phần nguyên do, nhưng thực chất những người có học vị cao và thu nhập khá giả vẫn mong muốn chuyển tới sống ở những đô thị cấp II hay III do họ cảm nhận được sự bất bình đẳng đối với dân ngoại tỉnh và cũng là để tìm kiếm cơ hội phát triển tốt hơn, một môi trường sống chất lượng hơn với những người hàng xóm phù hợp.
                                                                                                                    (Nguồn sự kiện từ cnzozo.com)


Vậy thì từ đây chúng ta có thể đưa ra một kết luận rằng đối với chuẩn mực của XH thì nơi có vị thế cao phải là một nơi tập hợp những người có vị thế cao với những mối quan hệ đem lại những giá trị lớn , lâu dài, và có khả năng phát triển thêm…Còn đối với mỗi cá nhân, mỗi tầng lớp thì họ sẽ có một sự cảm nhận khác nhau về vị thế ở những nơi khác nhau. Chẳng hạn đối với người lao động nghèo kiếm sống bằng nghề buôn bán thì chợ, vỉa hè…là nơi có vị thế quan trọng nhất vì ở đó họ có nhiều mối quan hệ với bạn hàng, với những người lao động khác, với tầng lớp, văn hóa phù hợp với họ, nếu đặt họ ở Wall Street thì đối với họ nó chẳng có ý nghĩa gì, vị thế gần như bằng 0, nghĩa là không ảnh hưởng nhiều, không mang lại nhiều lợi ích trong các mối quan hệ. Đìêu này cũng giống như sự khác biệt, mâu thuẫn giữa phố Đông – phố Tây ở Thượng Hải.

Chúng ta đã nói về tầm quan trọng của những mối quan hệ trong nhu cầu của người mua BĐS và dẫn tới mong muốn bản năng là được gia nhập và công nhận, và ngạn ngữ Pháp cũng có câu : “ Hãy cho tôi biết những người bạn của anh, tôi sẽ biết được anh là ai ” hay Hoàng Hữu Phê cũng nói rằng : “ Không quan trọng ở đâu, mà quan trọng ở với ai ” mới chứng tỏ bạn là ai ? Qua đó cũng thấy đựoc một điều rằng lý thuyết của Hoàng Hữu Phê đã nhận ra điều mà tưởng chừng ai cũng biết nhưng chẳng mấy ai hiểu được và dám thoát khỏi cái có lý của một học thuyết tồn tại gần một thế kỷ và đã được những học giả hàng đầu ca tụng như một sự thay đổi thế giới và thực sự thế giới đã thay đổi…

Từ những giá trị lý luận mà lý thuyết VT_CL mang lại, một câu hỏi đặt ra là khu nhà giàu từ đâu mà có nếu như người ta chỉ đi theo đám đông ? Nếu như chỉ có những người đi theo xu hướng thì vậy ai là người đi đầu, ai sẽ là người thành công để tạo niềm tin cho những người theo sau ?
Vậy sự tiên phong đó xuất phát từ những nhà tạo lập hiểu được tầm nhìn về những giá trị vô hình trong lý thuyết này. Tầm nhìn ở đây đó là sự chủ động mang lại vị thế, thương hiêu cho BĐS xuất phát từ những nhu cầu bản năng của con người chứ không phải là sự phụ thuộc vào vị trí cố định, vào những giá trị sẵn có, may rủi hay do người khác đem tới.

                                                                                                                                     remgtinviet                                                                                                                     nguồn: giaiphapdiaoc.net

Kinh Tế là Những Câu Chuyện Đơn Giản

Các nhà kinh tế học thường bị coi là một giống người phức tạp, khó hiểu, và không có ý kiến nào chắc chắn. Quý vị có biết câu chuyện "nhà kinh tế một tay" nổi tiếng từ nửa thế kỷ rồi không? Trong tuần báo Economist hồi tháng 11 năm 2003 họ viết một bài với nhan đề đó, "The one-handed economist" với dụng ý chỉ trích một tác giả, ông Paul Krugman, Đại học Harvard, rằng ông là một nhà kinh tế học... chỉ có một tay! Câu chuyện "The one-handed economist" được kể từ thời Tổng thống Harry Truman. Ông Truman bảo, "Xin quý vị kiếm cho tôi một nhà kinh tế học nào chỉ có một tay thôi, an one-handed economist, để tôi hỏi ý kiến!" Tại sao? "Bởi vì các nhà kinh tế mỗi khi góp ý kiến với tôi họ đều nói, 'On the one hand' (nhìn từ phía này thì ...), sau đó lại nói, 'On the other hand' (Nhìn từ phía khác thì...). Tôi không thể nào quyết định được!" Không cứ ông tổng thống Mỹ mà bất cứ nhà quản trị hay bà nội trợ nào cũng muốn có một kinh tế gia "một tay," cho mình nghe một ý kiến nhất định thôi. Không ai muốn nghe các ý kiến kiểu "Một đằng thì .., nhưng mặt khác thì ..." Nói kiểu Việt Nam cho đúng thì phải dịch "The one-handed economist" là "Nhà kinh tế một mặt," vì người mình hay nói "một mặt thì ... nhưng mặt khác thì..."

Nhưng tại sao tạp chí Economist (Kinh tế gia) lại chỉ trích ông Krugman là chỉ có một tay? Giáo sư Krugman thường viết mỗi tuần hai bài trên nhật báo The New York Times mà tôi xin thú thực hễ thấy bài của ông ta là muốn đọc. Vì, dù mình đồng ý với ông ta hay không, phải công nhận lối văn ông viết rất sắc bén và có duyên. Ông thường đưa ra những thí dụ, những hình ảnh đơn giản để thuyết phục độc giả. Chẳng hạn, ông chỉ trích chính sách cắt thuế của chính phủ George W. Bush, theo đó những người giầu nhất nước Mỹ hưởng ơn mưa móc quá nhiều so với giới trung lưu. Ngoài ra, vì cắt thuế nhiều quá nên ngân sách của chính phủ liên bang Mỹ khiếm hụt, phải vay nợ, trong tương lai dân Mỹ sẽ phải lo trả cả vốn lẫn lãi, mà hầu như không người dân nào để ý tới những món nợ khổng lồ đó. Ông Krugman tính ra số tiền một gia đình người Mỹ được cắt thuế bình quân khoảng 700 đô la. Trong khi đó, những món nợ mà chính phủ liên bang sẽ vay, nếu chia đều ra thì mỗi gia đình chịu một món nợ 1.500 đô la. Ông ví chính sách của chính phủ Bush giống như ông nhà nước mang tặng bạn một cái tủ lạnh trị giá 700 đô la, nhưng quên không báo cho bạn biết rằng ông nhà nước đã mua cái tủ lạnh đó bằng thẻ tín dụng credit card của chính bạn, mai mốt bạn sẽ phải trả góp. Và tấm thẻ đó lại bị "chạc" những 1.500 đô la vì ông nhà nước còn nhân tiện mua riêng cho mình mấy món khác nữa! Phải công nhận lối dùng những thí dụ giản dị như vậy khiến người đọc hiểu vấn đề rất nhanh, rất dễ thuyết phục người ta. Nhưng tạp chí The Economist phê bình rằng ông Krugman tuy thông minh xuất chúng nhưng lại rất thiên lệch khi bàn về chính sách kinh tế ở Mỹ. Ông nhìn chính sách nào của chính phủ Bush cũng chỉ thấy những khía cạnh xấu mà thôi, cho nên được gọi là "Nhà kinh tế một tay!" Tuy vậy, báo này cũng công nhận ông Krugman là một nhà nghiên cứu lỗi lạc, đã từng đoạt những giải về kinh tế học quan trọng ở Mỹ, và biết đâu có ngày ông sẽ được giải Nobel - nếu tập dùng cả hai tay.


Một thị trường giản dị

Trong nghề nghiên cứu kinh tế học có những công trình nghiên cứu với tham vọng với đến những hiện tượng bao trùm cả thế giới, hoặc gây tác dụng làm thay đổi cả chính sách của người cầm quyền. Nhưng người làm nghề nghiên cứu kinh tế cũng sẽ rất hãnh diện nếu dùng được những mô hình rất bình thường để mô tả những hiện tượng kinh tế tưởng như rất phức tạp. Hai giáo sư Modigliani và Miller thì ai học về môn Tài chính xí nghiệp đều biết, đã thay đổi lối người ta đặt những vấn đề như vay nợ, "Vay nợ nhiều hay ít có ảnh hưởng đến giá trị một xí nghiệp hay không?" Rồi họ lại đặt vấn đề chính sách cổ tức, "Trả cổ tức nhiều hay ít có ảnh hưởng đến giá trị của xí nghiệp hay không?" Và mỗi lần đặt các câu hỏi đó, họ nêu ra những mô hình đơn giản, tập cho nhà nghiên cứu suy nghĩ vấn đề bắt đầu từ cơ bản. Sau này hai ông đều được giải Nobel về kinh tế học. Tôi nhớ cả hai ông đều đã tới trường tôi thuyết trình, trong những buổi họp chỉ có vài chục người trong nghề dự - vì ở thành phố Montréal có tới bốn trường đại học nên mới đông đến vài chục người quan tâm đến môn tài chánh học. Khi mỗi ông đó thuyết trình, họ thường nêu ra những trường hợp đơn giản và đặt câu hỏi coi như vậy thì con người duy lý (và chỉ nghĩ đến lợi riêng) họ quyết định thế nào? Nếu mọi người đều theo lối quyết định đó thì hậu quả khiến thị trường tài chánh sẽ thay đổi ra sao? Họ không dùng những phương trình vi tích phân hay toán xác suất phức tạp như các người mới làm xong luận án tiến sĩ. Những "mô hình" đơn giản có thể làm thay đổi cách người ta nhìn và suy nghĩ vấn đề kinh tế, nếu người nêu lên bắt được đúng một vấn đề cơ bản, khi áp dụng thì biến hóa thiên hình vạn trạng, có thể đặt nhiều vấn đề kinh tế cùng theo một mẫu. Tất nhiên có những vấn đề kinh tế được đặt ra với các phương pháp toán học rất phức tạp mà cũng đóng góp cho hiểu biết của ngành kinh tế học, và giúp cho người ta quyết định đúng hơn. Nhưng những mô hình đơn giản bao giờ cũng đẹp hơn và kích thích được nhiều bộ óc hơn.

Chắc quý vị còn nhớ câu chuyện về thị trường bán xe cũ, trong bài nghiên cứu về "Lemon market" của giáo sư George Akerlof, ông đã được giải Nobel về kinh tế học, sự nghiệp của ông mở đầu với câu chuyện thị trường xe cũ đó. Akerlof đã đem một câu chuyện rất giản dị để diễn tả tình trạng người mua kẻ bán không có những tin tức giống nhau và thị trường không có cơ chế nào để giúp họ tin rằng có thể chia sẻ tin tức với nhau một cách chắc chắn trung thực. Mua xe cũ là một đề tài mà người Mỹ hay đem ra đùa cợt, như khi người ta hỏi nhau: Ông/bà có sẵn sàng mua một chiếc xe cũ của ứng cử viên này hay không? (Ý nói, hắn có đáng tin hay không?)

Akerlof kể chuyện trong thị trường xe cũ người bán xe thì biết cái xe của mình tốt hay xấu đến mức nào, còn người mua xe thì không biết được. Cho nên, nếu người mua xe biết giá trị chiếc xe cũ đời đó, nhãn hiệu đó, có giá tối đa là q, tối thiểu là số không, thì biết rằng cái xe mình đang tính mua có giá trị nằm giữa zero, số không, và q. Vì không biết chắc chắn giá trị chiếc xe nằm ở khoảng nào nên người mua xe phải đánh cá là nó ở mức trung bình, là q/2, một nửa mức tối đa. Trả giá q chia 2 có thể sai hay đúng, lợi hay thiệt, đánh cá 5 ăn 5 thua là tiện nhất.

Nhưng nếu người mua nào cũng đánh giá như vậy, chỉ vì họ không biết rõ tin tức về từng chiếc xe cũ, thì những người bán xe cũ nào biết giá trị xe mình tốt hơn, đáng giá hơn q/2, người đó sẽ rút ra khỏi thị trường, không bán nữa. Còn lại trong thị trường chỉ là những xe có giá trị từ q/2 trở xuống mà thôi. Nhưng người mua xe không ngu gì, cũng nhận ra điều đó, và họ biết trong thị trường bây giờ chiếc xe tốt nhất, có giá trị tối đa chỉ là q/2. Như vậy thì, vì vẫn không biết giá trị từng cái xe một, họ cứ trả giá trung bình là q/4. Trước cảnh đó, những người có xe cũ giá trị cao hơn q/4 sẽ rút lui, để lại trong thị trường chỉ còn những chiếc xe trị giá từ q/4 trở xuống thôi. Cứ tiếp tục như thế, sau cùng sẽ không còn thị trường bán xe cũ nữa vì chỉ những chiếc xe "thổ tả" nhất được bầy bán, tiếng Mỹ gọi là những trái chanh, lemon!

Kể câu chuyện đó xong, Akerlof mới nêu lên vấn đề chính là trong một thị trường mà người mua, kẻ bán có những "tin tức kinh tế không giống nhau." Nếu thế thì không thể có thị trường xe cũ, cũng như các thị trường giống như vậy. Nhìn chung quanh ta thấy liền là có không biết bao nhiêu là thị trường mà người mua kẻ bán không thể cùng biết một tin tức, mà cũng khó lòng tin ở nhau. Đáng lẽ ra thì không còn ai muốn mua, bán nữa! Nhưng tại sao vẫn có các thị trường? Chúng ta có thể tìm hiểu xem trong thực tế các thị trường hiện hữu họ đã bịa ra những biện pháp nào để giải quyết vấn đề "tin tức kinh tế không giống nhau." Khi áp dụng thì thấy nhiều lắm.

Người mua cổ phần một công ty không biết ban giám đốc thuộc loại lương thiện hay gian trá, chỉ có ban giám đốc tự biết họ. Người mua bảo hiểm xe biết mình thuộc loại lái cẩn thận hay là lái ẩu; nhưng các hãng bảo hiểm thì không biết. Người đi xin việc biết rõ khả năng của mình, người tuyển dụng chỉ biết lơ mơ thôi. Trong bao nhiêu sinh hoạt kinh tế khác, có những thị trường mà người mua và người bán không biết tin tức giống như nhau; không những thế, họ khó lòng báo tin cho nhau mà tin tức đó lại được bảo đảm là đáng tin cậy. Nhưng tại sao vẫn có những thị trường mua bán bảo hiểm, thị trường nhân dụng, thị trường chứng khoán, vân vân? Akerlof đã phân tích các trường hợp đó để thấy có những cơ chế (mecanism) nào được dùng trong các thị trường ngõ hầu giải quyết vấn đề tin tức bất cân xứng đó.

Akerlof đã mở cửa cho cả một ngành nghiên cứu mới về "Tin tức bất cân xứng" (asymmetric information), cái kho tàng đó bây giờ vẫn còn được tiếp tục khai phá. Bắt đầu bằng thí dụ thị trường xe hơi cũ nát, những trái chanh. Trước ông, đã có nhiều người phân tích vấn đề tin tức bất cân xứng này, nhưng ông có tài đặt vấn đề theo cách đơn sơ, dễ hiểu nhất, và nêu được những đặc tính, những ẩn số chính của bài toán cho những người đi sau áp dụng, từ đó họ tìm hiểu bao nhiêu lãnh vực khác. Về sau này một giải Nobel đã được trao cho Akerlof và mấy người khác cũng nghiên cứu vấn đề tin tức bất cân xứng trong đời sống kinh tế.

Chuyện ngụ ngôn hai người tù


Quý vị có nhớ chuyện nhân vật chính trong phim The Beautiful Mind hay không? Đó là ông giáo sư John F. Nash Jr., cũng được giải Nobel về kinh tế học. Ông thuộc một chủng loại khác với ông Akerlof ở trong nghề kinh tế. Ngành của ông gồm những người chuyên về "Game Theory," Lý thuyết Trò chơi. Thực ra ông là một nhà toán học, chỉ đi qua lãnh vực kinh tế một lần, với một bài viết ngắn ngắn, mà từ đó người ta đặt ra tên "Trạng thái quân bình theo lối Nash" (Nash Equilibrium.) Khi nghiên cứu kinh tế dùng Lý thuyết Trò chơi, Game Theory, các tác giả thường đặt vấn đề (kể một câu chuyện) xong rồi đặt câu hỏi đi tìm trạng thái quân bình Nash. Nghe chơi chơi vậy nhưng hầu hết các vấn đề kinh tế đều có thể đem ngiền ngẫm theo phương pháp Game, mà John Nash đã bầy ra cách đặt vấn đề, nên mở ra một con đường mới cho các nhà nghiên cứu. Không những trong kinh tế học, các ngành khoa học xã hội khác cũng khai thác Game Theory với nhiều ích lợi và lý thú.

Một câu chuyện giản dị được bao nhiêu nhà nghiên cứu dùng Game đem ra thử thách cái trí thông minh của mình là chuyện "Ngụ ngôn hai người tù" (The prisoners' dilemma.) Có người bịa ra câu chuyện đó để suy nghĩ về chiến lược thời chiến tranh lạnh Nga với Mỹ, rồi có người thấy có thể áp dụng nó vào môn học kinh tế, người khác đem áp dụng vào lãnh vực chính trị học, xã hội học, thậm chí đến việc nghiên cứu sinh học, di truyền học cũng dùng được.

Câu chuyện đơn sơ và thích thú. Một lần mở cuốn sách tên là Nguồn gốc của Đức hạnh (về đạo đức-xã hội học,) thấy câu mở đầu viết, "The prisoner has a dilemma ..." - Người tù có một mối lưỡng nan - tôi cảm thấy ngay tác giả là một người "biết chuyện!" Như gặp một người mà mình cảm thấy có thể trò chuyện mãi không chán, có thể kết bạn được. Mỗi lần gặp một bạn trẻ có vẻ thông minh và tò mò về đời sống chính trị, xã hội, tôi lại bị quyến rũ, muốn đem câu chuyện ngụ ngôn đó ra kể. Tiếc lắm, trong 100 người thì cũng chỉ được một người quan tâm! Nếu gặp một ai, bàn luận với nhau về một vấn đề nào đó, thí dụ chuyện cải tổ của đảng cộng sản Trung Quốc hay chuyện ông Osama bin Laden, hoặc một vụ ly dị, một vụ con cãi mẹ, mà chỉ cần nói, "Đây là một thứ prisoner's dilemma," nói thế là hiểu nhau rồi, thì vui biết mấy. Chữ Hán gọi là "Tương thị mạc nghịch," nhìn nhau là hiểu nhau, không thấy gì đối nghịch.

Chuyện ngụ ngôn hai người tù kể như vầy:

Tanya và Cinque bị bắt trong lúc cướp ngân hàng Hibernia, họ bị giam ở hai phòng riêng. Mỗi người chỉ lo cho mình chứ không lo cho bạn. Một viên biện lý khôn ngoan bảo riêng mỗi người rằng: "Mày có thể thú tội, hoặc giữ im lặng. Nếu mày thú tội mà bạn mày im lặng, mày sẽ được tha, còn bạn mày sẽ bị tù nặng vì có lời mày làm chứng. Ngược lại, nếu mày im lặng mà bạn mày thú thì nó sẽ được tha, còn mày ở tù. Nếu cả hai cùng thú tội, cả hai sẽ bị tù, nhưng tòa sẽ cho án nhẹ thôi. Nếu cả hai cùng im lặng, tòa sẽ buộc tội mang vũ khí bất hợp pháp và phạt tù. Bây giờ nghĩ đi, sáng mai viết cho tòa một tấm giấy thú tội nhé!"

Mỗi người tù trên đây suy nghĩ như nhau, thấy chỉ có hai trường hợp xẩy ra, là hoặc người kia thú tội, hoặc hắn im lặng. Thử tính trong mỗi trường hợp đó mình quyết định thế nào thì có lợi nhất.

Nếu người kia im lặng, mình có thể chọn im lặng hoặc thú tội. Nếu cũng im lặng thì sẽ bị tù vì tội mang súng bất hợp pháp, nếu thú tội thì sẽ được tha. Như vậy thì thú tội tốt hơn!Bây giờ nếu người kia thú tội, nên tính sao? Nếu mình im lặng, mình sẽ bị tù nặng còn nó được tha. Còn nếu mình thú tội, cả hai sẽ bị tù nhưng được hưởng án tù nhẹ hơn. Thôi, cứ thú tội vẫn hơn.Cả hai người tù cùng suy nghĩ thuần lý sẽ thấy đằng nào cũng nên thú tội! Đó là suy nghĩ thuần lý dựa trên quyền lợi của mỗi người.Nếu như hai người có thể thông tin cho nhau, và có thể biết chắc người kia không thể phản mình được (vì ra ngoài sẽ bị thanh toán chẳng hạn) thì cả hai cùng im lặng, mỗi người sẽ chỉ bị buộc tội mang vũ khí, nhẹ hơn tội cướp ngân hàng!

Câu chuyện này cho thấy khi mỗi người dùng tinh thần duy lý thì kết quả khác nếu tập thể dùng lý trí! Ở đời có rất nhiều trường hợp tương tự!

Câu chuyện "Mối lưỡng nan của hai người tù" do Merrill Flood và Elvin Dresher bịa ra đầu tiên, năm 1950. Họ nghiên cứu về chiến lược trong thế giới với hai cường quốc Nga, Mỹ đang đe dọa nhau bằng bom hạch tâm. Sau đó, ông Albert Tucker kể lại câu chuyện cho có con số rõ ràng hơn, để các giáo sư tâm lý trong Đại học Stanford có thể cùng hiểu. Cho tới cuối thập niên 1970 đã có cả ngàn bài nghiên cứu về câu chuyện này. Từ 1988 đến 1994 có hơn 200 cuốn sách viết đến chuyện này, và cứ thế tiếp tục.

Như vậy cho nên những người nghiên cứu kinh tế học không phải chỉ bàn những chuyện giá trị đồng đô la hay chỉ số sinh hoạt. Họ là người, họ cũng quan tâm đến bao nhiêu chuyện khác. Và nhiều khi họ bàn những chuyện ngoài kinh tế, chỉ vì thấy có thể áp dụng một mô hình kinh tế giản dị vào những cảnh huống khác của cuộc đời.

Hãy coi những vụ Enron, WorldCom, với những Anderson, Merrill Lynch, họ đã bị tố cáo ăn chịu, thông đồng với nhau làm cho giới đầu tư bị thiệt. Nhưng chúng ta cứ quan sát cảnh đàn ông đàn bà, con trai con gái gặp gỡ nhau để tìm bạn lứa đôi coi. Họ cũng play đủ thứ games không khác gì trong thị trường chứng khoán! Trước khi bàn đến thị trường hôn nhân, hãy kể một câu chuyện ngụ ngôn khác.


Kinh tế quốc doanh bất lợi

Có một Trò chơi cho chúng ta biết tại sao các xí nghiệp quốc doanh không sinh lợi, và nói chung, tại sao các nước ngả về kinh tế quốc doanh sẽ bị trì trệ. Trò chơi này đọc trong cuốn Nguồn gốc của Đức Hạnh - The Origns of Virtue, của Matt Ridley, xuất bản năm 1996.

Có hai người, tên Konrad (K) và Niko (N) bắt buộc phải chia nhau lợi nhuận. Lợi nhuận này cao hay thấp là do họ quyết định mà tạo ra. Theo quy luật của cuộc chơi thì K là người được quyết định trước, và anh ta được chọn cách chia tiền. Có hai cách, là Bình đẳng hay Bất công. Còn N phải quyết định sau, nhưng anh ta sẽ được phép chọn số tiền để đem chia, là Cao hay Thấp.Nếu K chọn Bình đẳng thì hai người sẽ chia đôi số tiền. Nhưng nếu anh chọn Bất công thì anh ta sẽ được chia 90% số tiền, còn 10% để cho N.Sau khi K chọn rồi, đến lượt N chọn số tiền đem chia là Cao hay Thấp.Nếu N chọn Cao, số tiền hai người được chia nhau sẽ là, thí dụ 10 ngàn. Như vậy là gấp 10 lần số tiền nếu N chọn Thấp, chỉ có 1 ngàn.Với quy luật cuộc chơi như vậy,theo quý vị nghĩ thì mỗi người K và N sẽ quyết định ra sao? Tất nhiên K là người được quyết định trước, anh ta sẽ chọn cách chia Bất công, để được hưởng 9 phần mười lợi nhuận.Còn N sẽ tính sao? Dù anh ta quyết định cách nào, anh cũng chỉ được hưởng 10% lợi nhuận. Như vậy thì đằng nào anh cũng nên chọn Lợi nhuận Cao, nếu không chính anh sẽ bị thiệt! Đây là một giải đáp Quân bình Nash cho cuộc chơi vì hai bên sẽ không muốn thay đổi.Nhưng đó là theo lý luận của các nhà toán học. Trong đời sống xã hội chúng ta có những cảnh giống như trò chơi trên đây, nhưng tâm lý con người khác với bài toán thuần lý.

Tại những xứ độc tài có hai giai cấp. Một là nhóm thống trị, họ nắm quyền, thụ hưởng hầu hết lợi nhuận của nền kinh tế quốc gia, còn người dân thường thì hưởng rất ít. Nhưng chính người dân thường, với tư cách lao động, lại có thể chọn làm việc hăng hái, hay uể oải, ảnh hưởng đến lợi tức quốc dân. Để cho giản dị, chúng ta tưởng tượng một cuộc chơi.Thí dụ chúng ta có hai người tên là Quan và Dân. Hai người chia nhau lợi nhuận của một xí nghiệp chẳng hạn, trong đó Quan là thủ trưởng, Dân là công nhân. Quan có quyền quyết định chia lợi nhuận theo cách của ông ta, và thế nào Quan cũng chọn cách Bất công, để hưởng 90%, còn 10% để cho Dân hưởng. Còn Dân thì có quyền làm việc hăng hái hay uể oải, ảnh hưởng tới lợi nhuận cao hay thấp.

Nhưng trong trò chơi này lợi nhuận Cao hay Thấp không khác nhau nhiều đến 10 lần như trong trò chơi toán học trên. Nếu Dân cố làm hết sức để lợi nhuận cao hơn, từ mức 100 đồng năm ngoái có thể sẽ tăng lên 110 đồng, tỷ lệ tăng trưởng là 10%. Ngược lại, nếu Dân không cố gắng, làm tà tà, thì tỷ lệ tăng trưởng chỉ có 5%, lợi nhuận lên thành 105 đồng.Đối với thằng Dân, nếu làm tà tà được chia 10% của 105 đồng tức là được 10 đồng rưỡi, còn nếu làm cật lực thì cũng khá hơn, được 11 đồng, khác nhau 50 xu.Nhưng khi thằng Dân quyết định, nó không chỉ nhìn vào túi nó có thêm 50 xu, khá hơn, mà nhìn vào lợi nhuận của ông Quan. Nếu thằng Dân làm cật lực, ông Quan sẽ hưởng 90% của 110, tức 99 đồng. Nếu Dân làm uể oải, ông Quan sẽ được 94 đồng rưỡi mà thôi - tức là 90% của 105 đồng. Nếu nhân dân nỗ lực, lợi tức của quan sẽ tăng từ 94 đồng rưỡi lên 99 đồng!

Theo tâm lý con nhà nghèo chúng tôi thì thằng Dân sẽ chọn cách làm uể oải, tà tà. Vì nó thấy mình có cực thân cũng chẳng hưởng được bao nhiêu (50 xu) mà ông chủ thì được hưởng thêm nhiều quá (thêm 4 đồng rưỡi!). Thằng Dân so sánh 50 xu của mình với 4 đồng 50 xu của Quan mà thấy tủi thân! Chắc nó sẽ không cố gắng!

Cũng có thể suy luận lối khác, thằng Dân thấy rằng nếu làm việc tà tà mình cũng chỉ bị mất có 50 xu mà thôi, còn ông Quan sẽ bị mất 4 đồng 50 xu lận! Nếu thằng Dân muốn trả thù Quan thì nó sẽ làm việc tà tà!

Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giải thích tại sao các chế độ gọi là xã hội chủ nghĩa hiện thực lại thất bại về kinh tế. Tại các nước Tư bản Quả đầu thì hơi khác. Vì các chế độ đó không cực quyền toàn trị cho nên thằng Dân ở đó không chịu lép một bề mãi.

Nó sẽ đòi thay đổi cách phân chia. Và mỗi khi cách phân chia công bằng hơn một chút, mức phát triển kinh tế cũng cao hơn. Người ta đã nghiên cứu nhiều quốc gia, thấy trong thực tế mức độ công bằng xã hội lợi tức tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế, điều đó không ngạc nhiên.

Nhưng trong câu chuyện trên đây người Dân không tính toán thuần lý và duy lợi như trong các mô hình kinh tế học. Đáng lẽ nếu duy lý thì anh Dân phải thấy có thêm 50 xu vẫn hơn, còn anh Quan anh ấy có thêm 4 đồng rưỡi là chuyện không liên can gì đến mình! Nhưng nếu cái tính ganh tị, thù oán nó nhập vào thì người Dân có thể lãng công trường kỳ, giống như ở nhiều nước độc tài vậy! Khi quyết định về hôn nhân, thường chúng ta cũng không duy lý như trong kinh tế học. Tuy nhiên, có những thiên tình sử vĩ đại vẫn chứa đựng khía cạnh kinh tế trong đó!


Nữ hoàng Saba và vua Salomon

Trong thị trường hôn nhân, đàn ông cạnh tranh với các người đàn ông khác để được một hay nhiều phụ nữ chú ý, để họ chịu đi ăn tối với mình, đi coi hát, khiêu vũ với mình, và sau cùng là mục đích gì thì ai cũng biết. Ngược lại, phụ nữ cũng cạnh tranh với nhau để thu hút càng nhiều quý ông càng tốt, để tìm một người bạn đời, nếu không gọi là một "nơi nương tựa." Hai bên biết mục đích và nhu cầu của nhau, và có thể bước vào thị trường, bắt đầu việc "tiếp thị" - marketing! Chúng ta hành động không khác gì mấy hãng xe General Motors, Toyota, BMW tìm cách bán xe cho người tiêu thụ. Môn tiếp thị rất hữu ích cho chúng ta để hiểu câu chuyện hôn nhân, tán tỉnh, hẹn hò ... Mỗi nhà sản xuất tìm cách trưng bầy sản phẩm của mình như câu trả lời đúng nhất cho nhu cầu của người tiêu thụ, và tất nhiên ai cũng muốn che giấu mọi nhược điểm của mình đi. Một tác giả, đã tốt nghiệp MBA ở Đại học Harvard, viết một cuốn sách về "Lớp MBA ở Đại học Harvard dậy tôi cái gì về nghệ thuật kiếm chồng!" Tôi xin lỗi không kể tên tác giả ở đây vì không đồng ý với lối đặt đề tài đó! Nhưng, cũng có thể vì tôi đã lớn tuổi rồi thấy mình không còn ở trong thị trường đó nữa cho nên không thích đọc!

Một nhà kinh tế viết thế này về trò chơi kết bạn khác tính phái (giả thiết là để tiến tới hôn nhân), không biết quý vị nghĩ sao: "Phụ nữ đi tìm một người đàn ông để đáp ứng mọi nhu cầu của mình, trong khi người đàn ông đi tìm mọi phụ nữ chỉ để thoả mãn một nhu cầu của hắn." Trong một thị trường như vậy, mỗi bên phải hiểu mục đích của bên kia, và tìm cách "chiêu mại" sản phẩm của mình cho phù hợp, đồng thời vẫn bảo vệ được mục đích của mình khi mua sản phẩm của đối tác. Có thể phân tích như hai người tham dự (play) một trò chơi (game). Họ cũng có khi kết hợp lại như những tổ chức OPEC để bảo vệ giá dầu. Họ cũng tìm cách hại đối thủ cạnh tranh khi cần bán cho cùng một giới tiêu thụ.

Tôi viết như trên và ý thức rằng các ông, bà bạn thi sĩ của tôi đang nổi giận. Họ sẽ mắng rằng, "Thế còn ái tình, tình yêu chân chính, cao quý, bỏ đi đâu?" Tôi xin các thi sĩ tha lỗi. ở trên đời có TìnhYêu chứ. Tôi tin vào điều đó không kém ai hết. Tình yêu là thứ không ai hiểu được. Chỉ có hôn nhân nhiều khi có thể đem phân tích theo game theory được mà thôi, tình yêu thì không phân tích nổi. Khi chúng ta gặp một người, nói những chuyện trên trời dưới biển, chuyện triết lý của Khổng Tử và chuyện nấu canh sao cho ngon, chuyện Thơ Đường hay nhạc Mozart, rồi đến chuyện bán cái xe cũ mua xe mới; rồi sau một giờ trò chuyện, không ai tán tỉnh ai hết, bỗng nhiên một người nói, "Anh yêu em;" rồi người kia nói, "Em yêu anh;" như thế ta gọi là tình yêu. Rồi chia tay nhau, trong lòng hào hứng mà không biết mình đang hào hứng về chuyện gì. Mấy ngày liền cứ nghĩ đến là thấy "phiêu phiêu" không hết, giống như Cô Mùi gặp anh Siêu hoặc Zivago gặp Lara. Như thế, tiếng ta gọi là Yêu! Tiếng Tầu long trọng gọi là "Tương thị mạc nghịch."

Có một chuyện tình nổi tiếng, được chép trong Cựu Ước, chắc ai cũng biết. Chuyện của Nữ hoàng Sheba và vua Salomon. Khi Salomon dọa đem quân tấn công, nữ hoàng Sheba đã "đi thẳng tới Jerusalem mang theo cả một đoàn xe và lạc đà, chuyên chở bao nhiêu là hương liệu, vàng bạc, và đá quý." Và một vụ ái tình đã xẩy ra, đẹp như một bài thơ, được ghi trong kinh thánh cẩn thận.

Nhưng chúng ta không quên rằng nguồn lợi tức chính của vương quốc nữ hoàng Sheba là buôn hương liệu, và đất đai bà ngự trị là xứ Yemen bây giờ, kiểm soát Hồng Hải là con đường nhập cảng hương liệu từ các xứ miền Đông (tức Á châu) đem qua vùng Địa Trung Hải. Vua Salomon, con người thánh trí cũng biết mối lợi kinh tế đó và muốn thảo luận. Khi hai nhà buôn muốn tấn công cùng một thị trường họ chỉ có hai cách đối phó với nhau: hoặc cạnh tranh cắt cổ cho tới khi đối phương bị gục, hoặc thương lượng để đồng loã cùng nhau bắt chẹt giới tiêu thụ. Cuộc gặp gỡ giữ nữ hoàng Sheba và vua Salomon khiến chúng ta phải nhớ đến những chuyện Enron, Dynergy với El Paso đồng ý làm giá trong thị trường điện ở California, hay chuyện Merrill Lynch trao đổi với Tyco. Adam Smith viết từ thế kỷ 18: "Những người buôn cùng một ngành ít khi gặp gỡ nhau chỉ để giải trí, và khi gặp thì câu chuyện sau cùng của họ vẫn là đồng loã bắt chẹt giới tiêu thụ, nhiều khi là để cùng tăng giá." Chắc chắn sau cuộc gặp gỡ giữa vua Salomon và Nữ hoàng Sheba, giá cả trong hương liệu khác trước! Hai bên cùng có lợi, chỉ giới tiêu thụ bị thiệt! Ai ngờ thiên tình sử vĩ đại như thế mà cũng bị các nhà kinh tế học soi mói! Có đúng là hai đấng trai tài gái sắc đó đã ký một hiệp định thương mại song phương hay không? Hay chỉ có tiếng sét ái tình mà thôi?

Tội nghiệp cho thân phận con người. Chúng ta cũng phải lo trả các hóa đơn mỗi tháng, lo cho tương lai mình và con cái nếu có sau khi lấy nhau. Cho nên không thể tin mãi vào cảnh "một mái nhà tranh với hai trái tim vàng." Đó là thân phận làm người. Kinh tế học không giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn. Nhưng hy vọng có thể giúp chúng ta tránh các quyết định vội vàng, bớt phiền não được chút nào hay chút đó. Nếu chúng ta cùng hiểu được như vậy thì cũng là tương thị mạc nghịch, dù không phải là tình yêu.

Ngô Nhân Dụng

Nguồn: Thế kỉ 21, số Xuân 2004
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com